🥌 Bình Luận Bản Án Hình Sự
2. Bình luận tội chống người thi hành công vụ. 2.1 Tội chống người thi hành công vụ là gì? 2.2 Các yếu tố cấu thành tội danh chống người thi hành công vụ; 3. Xử lý hình sự đối với hành vi chống người thi hành công vụ; 4. Các câu hỏi có liên quan. 4.1 Người thi hành
Đinh Văn Quế - WShowresult. Luật sư Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, 2017, Số 1+2, tr.54-55 24, Bình luận khoa học bộ luật Hình sự - Phần các tội phạm : Bình luận chuyên sâu. Trần Gia Hưng tốt nghiệp trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn chuyên ngành viết văn.
1.ĐẶT VẤN ĐỀ. Ngày 06-4-2016, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Quyết định số 220/QĐ-CA đã ban hành 06 án lệ đầu tiên, trong đó có 01 án lệ hình sự. Ngày 06-11-2018, Quyết định số 269/QĐ-CA của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) đã công bố thêm 10 án lệ, trong
II.1. Nội dung nguyên văn bản án 4 II.2. Tóm tắt nội dung vụ án 17 II.3. Yêu cầu và lập luận của các bên 19 II.4. Vấn đề pháp lý cần giải quyết trong vụ án 20 II.5. Các quy định pháp luật mà Tòa án áp dụng trong bản án 20 III. PHÂN TÍCH, BÌNH LUẬN CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ TRONG
Tiểu Luận Học Phần Luật Tố Tụng Dân Sự Bình Luận Bản Án với việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại, Tòa án nhân dân Quận 1 đã căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm
Kỹ năng xây dựng bản luận cứ bảo vệ cho bị hại - Học Luật VN năng (chuẩn bị) xây dựng bản luận cứ bảo vệ cho bị hại trong vụ án hình sự. dân sự đối với bị cáo, đồng thời yêu cầu áp dụng các biện pháp bảo đảm Hocluat.vn 9 phút trước 1570 Like
Soạn thảo bản án hình sự sơ thẩm là công việc thường xuyên của Thẩm phán và những người được giao soạn thảo bản án. Bản án hình sự sơ thẩm là sản phẩm thể hiện kết quả toàn bộ hoạt động tố tụng của Tòa án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi tuyên án. Thực tiễn cho thấy hiện nay việc viết
Ông Tất Thành Cang lãnh thêm bản án 6 năm tù vì bán rẻ đất đai. Ngày 19.10, TAND TP.HCM đã tuyên phạt bị cáo Tất Thành Cang 6 năm tù vì tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí. Tổng hợp hình phạt từ vụ án Sadeco trước đó
Bình luận bản án luật Sở hữu trí tuệ, Tranh chấp "Thần đồng đất việt" – Phần 1. Tóm tắt bản án: Họa sỹ Lê Linh kiện công ty phan thị về việc xác định tác giả duy nhất các hình tượng nhân vật hoạt hình. Vấn đề pháp lý: xác định tác giả, đồng tác giả
q4K8. TÓM TẮTNỘI DUNG BẢN ÁNBÌNH LUẬN BẢN ÁN1. Dẫn nhập2. Hoàn cảnh phát sinh tranh chấp[7]3. Áp dụng pháp luật4. Vấn đề pháp lý phát sinh5. Hoàn cảnh tương tự trong tương laiCHÚ THÍCH Bình luận bản án Bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại Tác giả TS. Lê Thị Nam Giang & ThS. Phạm Vũ Khánh Toàn Vụ án được bình luận trong bài viết là một ví dụ điển hình cho việc giải quyết hiện tượng xung đột quyền trong bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại cũng như điều kiện để doanh nghiệp có thể dùng tên địa danh bảo hộ cho nhãn hiệu của mình và được xem xét với nhiều vấn đề pháp lý phát sinh dưới góc độ pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng. Cụ thể, các vấn đề pháp lý sau đây đã được phân tích trong bài viết i tên của cơ sở kinh doanh, trong trường hợp này là tên Nhà máy xi măng Trung Sơn trong Dự án thành lập Nhà máy có được pháp luật bảo hộ là tên thương mại không?; ii việc sử dụng tên địa danh, cụ thể là tên xã Trung Sơn làm dấu hiệu trong nhãn hiệu “Trung Sơn – xi măng Pooc Lăng hỗn hợp – Hoà Bình – Việt Nam” có thực sự không đáp ứng điều kiện bảo hộ không? iii sự tuân thủ pháp luật tố tụng hành chính trong trường hợp căn cứ hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ nhãn hiệu được đưa ra bởi Cục Sở hữu trí tuệ trong Quyết định số 2470/QĐ-SHTT ngày 8/12/2012 đối tượng của vụ kiện là nhãn hiệu được bảo hộ có chứa dấu hiệu trùng với thành phần phân biệt trong tên thương mại của Nhà máy xi măng Trung Sơn nhưng Toà án khi tuyên sửa bản án sơ thẩm chỉ dựa trên căn cứ nhãn hiệu không đáp ứng điều kiện bảo hộ vì không có sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền. Xem thêm bài viết về “Bình luận bản án” Bình luận bản án Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam – Đỗ Văn Đại & ThS. Nguyễn Phương Thảo Bình luận bản án – Hành vi xâm phạm quyền tác giả – ThS. Nguyễn Phương Thảo Bình luận bản án Ngôn ngữ trong tố tụng trọng tài thương mại ở Việt Nam – Đỗ Văn Đại Bình luận bản án Điều kiện từ chối đăng ký, sử dụng tên miền – Đỗ Văn Đại & ThS. Nguyễn Ngọc Hồng Phượng Bình luận bản án Sính lễ trong pháp luật Việt Nam – Đỗ Văn Đại & ThS. Lê Thị Diễm Phương NỘI DUNG BẢN ÁN Bản án số 56/2013/HC-PT ngày 09/4/2013 Trích XÉT THẤY Về thủ tục tố tụng Ngày 16/5/2007, Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ Cục SHTT – Bộ Khoa học và Công nghệ Bộ KH & CN ban hành Quyết định số 5716/QĐ-SHTT cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá GCN ĐKNH số 82099 cho sản phẩm xi măng của Công ty Xuân Mai. Ngày 08/12/2010, Cục trưởng Cục SHTT – Bộ KH & CN ban hành Quyết định số 2470/QĐ-SHTT về việc huỷ bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNH số 82099 nêu trên. Không đồng ý, Công ty Xuân Mai đã khiếu nại. Ngày 13/5/2011, Cục trưởng Cục SHTT – Bộ KH & CN ban hành Quyết định số 904/QĐ-SHTT giải quyết khiếu nại với nội dung không chấp nhận khiếu nại của Công ty Xuân Mai. Ngày 14/7/2011, Công ty Xuân Mai khởi kiện yêu cầu Toà án hủy Quyết định số 2470/QĐ-SHTT ngày 16/5/2007 về việc hủy bỏ một phần hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa số 82099 và Quyết định số 904/QĐ-SHTT ngày 13/5/2011 của Cục trưởng Cục SHTT – Bộ KH & CN về việc giải quyết khiếu nại. Như vậy, việc Công ty Xuân Mai đã khiếu nại và khởi kiện đúng thủ tục pháp luật quy định và Toà án nhân dân tỉnh Hòa Bình thụ lý, giải quyết vụ án hành chính là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng hành chính. Về nội dung + Việc áp dụng pháp luật để hủy bỏ văn bằng bảo hộ Tại khoản 3 Điều 220 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi năm 2009 Luật SHTT quy định “Mọi quyền và nghĩa vụ theo văn bản bảo hộ được cấp theo quy định của pháp luật có hiệu lực trước ngày Luật này có hiệu lực và các thủ tục duy trì, gia hạn, sửa đổi, chấm dứt, hủy bỏ hiệu lực, chuyển giao quyền sử dụng, chuyển nhượng quyền sở hữu, giải quyết tranh chấp liên quan đến văn bằng bảo hộ đó được áp dụng theo quy định của Luật này, trừ căn cứ hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ thì áp dụng quy định pháp luật có hiệu lực đối với việc xét cấp văn bằng bảo hộ đó. Quy định này cũng được áp dụng với Quyết định đăng bạ tên gọi xuất xứ hàng hóa ban hành theo quy dịnh pháp luật có hiệu lực trước ngày Luật này có hiệu lực;cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng kí chỉ dẫn địa lý đối với các tên gọi xuất xứ hàng hóa.” Căn cứ vào quy định nêu trên, thấy rằng việc Cục SHTT đã áp dụng Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính Phủ được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 06/2001/NĐ-CP ngày 01/02/2001 để xét cấp cho Công ty Xuân Mai Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa số 82099 tại Quyết định số 5716/QĐ-SHTT ngày 16/5/2007 và khi hủy bỏ hiệu lực của GCN ĐKNH số 82099 cũng phải áp dụng Nghị định này. Tại khoản 1 Điều 29 Nghị định 63/CP quy định “Bất kỳ người thứ ba nào cũng có quyền nộp đơn yêu cầu Cục Sở hữu công nghiệp hủy bỏ hiệu lực một Văn bằng bảo hộ với lý do Văn bằng bảo hộ đó được cấp không phù hợp với các quy định của pháp luật như quy định tại khoản 2 Điều này…”. Theo quy định trên thì Công ty Bình Minh có quyền đề nghị Cục SHTT hủy bỏ GCN ĐKNH số 82099 đã cấp cho Công ty Xuân Mai. + Về thời hiệu nộp đơn yêu cầu hủy bỏ hiệu lực của văn bằng bảo hộ Nghị định số 63/CP nêu trên không quy định về thời hiệu nộp đơn yêu cầu Cục SHTT hủy bỏ hiệu lực của văn bằng bảo hộ. Do đó Công ty Bình Minh có quyền nộp đơn vào bất kì thời điểm nào trong thời hạn có hiệu lực của văn bằng bảo hộ. Theo văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa số 82099 của Công ty Xuân Mai thì Văn bằng bảo hộ này có hiệu lực 10 năm kể từ ngày 04/7/2005. Ngày 01/9/2010, Công ty Bình Minh gửi Công văn số 123/CV-CTBT đến Cục SHTT đề nghị hủy bỏ nhãn hiệu số 82099 do Cục SHTT cấp cho Công ty Xuân Mai; ngày 08/9/2010, Cục SHTT nhận được đơn này. Như vậy, Công ty Bình Minh nộp đơn yêu cầu hủy bỏ nhãn hiệu hàng hóa của công ty Xuân Mai là trong thời gian có hiệu lực của văn bằng bảo hộ. + Xét nội dung Quyết định số 2470/QĐ-SHTT ngày 16/5/2007 của Cục trưởng Cục SHTT về việc hủy bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNHsố 82099 đã cấp cho Công ty Xuân Mai. Sau khi xem xét đơn của Công ty Bình Minh yêu cầu Cục trưởng Cục SHTT hủy bỏ thành phần “Trung Sơn” trong nhãn hiệu hàng hóa số 82099 của Công ty Xuân Mai với lý do là thuộc trường hợp “đối tượng được bảo hộ không đáp ứng đúng tiêu chuẩn bảo hộ” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 29 Nghị định số 63/CP; ngày 08/12/2010 Cục trưởng Cục SHTT ra Quyết định số 2470/QĐ-SHTT về việc hủy bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNH số 82099 cấp cho Công ty Xuân Mai theo Quyết định số 5716/QĐ-SHTT ngày 16/5/2007 của Cục trưởng Cục SHTT. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng Tại điểm g khoản 2 Điều 6 Nghị định 63/CP sửa đổi quy định về các dấu hiệu không được Nhà nước bảo hộ với danh nghĩa là một nhãn hiệu hàng hóa như sau “dấu hiệu, tên gọi bao gồm cả ảnh, tên, biệt hiệu, bút danh, hình vẽ, biểu tượng giống hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với hình quốc kì, quốc huy, lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân, địa danh, các tổ chức của Việt Nam cũng như của nước ngoài nếu không được các cơ quan, người có thẩm quyền tương ứng cho phép”. Theo quy định này, thì Đơn xin cấp GCN ĐKNH của Công ty Xuân Mai phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép sử dụng tên gọi địa danh “Trung Sơn” trong nhãn hiệu hàng hóa của mình thì nhãn hiệu này mới được Nhà nước bảo hộ. Nhưng trong hồ sơ đăng ký nhãn hiệu hàng hóa của Công ty Xuân Mai không có tài liệu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép Công ty Xuân Mai được sử dụng địa danh Trung Sơn trên nhãn hiệu hàng hóa được bảo hộ. Do vậy, Cục trưởng Cục SHTT ra Quyết định số 2470/QĐ-SHTT ngày 08/12/2010 về việc hủy bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNH số 82099 cấp cho Công ty Xuân Mai theo Quyết định số 5716/QĐ-SHTT ngày 16/5/2007 của Cục SHTT là đúng quy định nêu trên. Tòa án cấp sơ thẩm khi giải quyết vụ án đã không kiểm tra đầy đủ văn bản pháp luật có liên quan nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Xuân Mai là chưa khách quan, chưa đúng với quy định của pháp luật. Do đó, kháng cáo của người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là có căn cứ chấp nhận. Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao để sửa bản án sơ thẩm. …… Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 205 Luật Tố tụng hành chính; QUYẾT ĐỊNH – Áp dụng khoản 3 Điều 220 Luật Sở hữu trí tuệ; áp dụng khoản 2 Điều 6 Nghị định 63/NĐ-CP ngày 24/10/1996 đã sửa đổi theo Nghị định số 06/2001/NĐ-CP ngày 01/02/2001. Chấp nhận kháng cáo của Cục SHTT và kháng cáo của Công ty Cổ phần Tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh. Sửa bản án sơ thẩm như sau Bác đơn khởi kiện của Công ty TNHH Xuân Mai đối với yêu cầu hủy bỏ Quyết định số 2470/QĐ-SHTT ngày 08/12/2010 của Cục trưởng Cục SHTTvề việc hủy bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNHsố 82099 cấp cho Công ty TNHH Xuân Mai. ……. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. Xem thêm bài viết về “Nhãn hiệu” Xung đột quyền trong bảo hộ Nhãn hiệu và Tên thương mại – TS. Lê Thị Nam Giang Nhãn hiệu nổi tiếng, pháp luật và thực tiễn – ThS. Lê Xuân Lộc & ThS. Mai Duy Linh Bình luận bản án Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam – Đỗ Văn Đại & ThS. Nguyễn Phương Thảo Những thay đổi quan trọng trong quy định pháp luật của liên minh Châu Âu về nhãn hiệu – TS. Nguyễn Hồ Bích Hằng Nguyên tắc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại đối với nhãn hiệu hàng hóa Liên minh Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam – ThS. Lê Trần Thu Nga BÌNH LUẬN BẢN ÁN 1. Dẫn nhập Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau[1]. Theo pháp luật sở hữu trí tuệ SHTT Việt Nam, nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện i là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc; ii có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác; iii không thuộc các trường hợp được quy định tại Điều 73 và Điều 74 Luật SHTT[2]. Quyền sở hữu công nghiệp SHCN đối với nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của Cục SHTT[3]. Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh[4]. Để được pháp luật SHTT bảo hộ dưới danh nghĩa là tên thương mại của tổ chức, cá nhân, cần phải đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 78 Luật SHTT, bao gồm i chứa thành phần tên riêng để phân biệt; ii không trùng và tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ trước đó; iii không trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với tên thương mại của người khác đã sử dụng trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Quyền SHCN đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở thực tiễn sử dụng hợp pháp tên thương mại đó tương ứng với khu vực lãnh thổ và lĩnh vực kinh doanh mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký. Thường thì tên của doanh nghiệp trong đăng ký kinh doanh cũng chính là tên thương mại của doanh nghiệp. Nhãn hiệu và tên thương mại là các đối tượng được bảo hộ quyền SHCN với các quy định khác nhau. Chức năng cơ bản của nhãn hiệu là nhằm phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau trong khi đó chức năng cơ bản của tên thương mại là nhằm phân biệt chủ thể kinh doanh. Trên thực tế, không ít doanh nghiệp đã lấy tên địa danh làm dấu hiệu để đăng ký bảo hộ nhãn hiệu và/hoặc yếu tố cấu thành tên thương mại. Và vì nhiều lý do khác nhau, có nhiều trường hợp tên của một địa danh được các doanh nghiệp khác nhau cùng sử dụng làm tên thương mại của doanh nghiệp và/hoặc nhãn hiệu cho hàng hoá, dịch vụ của mình. Trong những trường hợp này có thể phát sinh các vấn đề pháp lý như i hiện tượng xung đột quyền trong bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại[5]; iiđiều kiện để doanh nghiệp có thể dùng tên địa danh bảo hộ cho nhãn hiệu của với vấn đề pháp lý thứ nhất, pháp luật SHTT Việt Nam đã có những quy định nhằm ngăn ngừa và giải quyết hiện tượng xung đột quyền trong bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại. Cụ thể, quyền SHCN có thể bị hủy bỏ hiệu lực đối với các quyền được xác lập theo văn bằng bảo hộ hoặc bị cấm sử dụng đối với các quyền không cần xác lập trên cơ sở văn bằng bảo hộ nếu xung đột với quyền SHTT của tổ chức, cá nhân khác được xác lập trước[6]. Đối với vấn đề thứ hai, nhãn hiệu có thể bị hủy bỏ nếu không đáp ứng điều kiện bảo hộ. Vụ án được bình luận dưới đây là một ví dụ điển hình về giải quyết xung đột quyền trong bảo hộ tên thương mại và nhãn hiệu, cũng như vấn đề sử dụng tên địa danh làm dấu hiệu cho nhãn hiệu và rất đáng để xem xét với nhiều vấn đề pháp lý phát sinh từ góc độ pháp luật nội dung đến pháp luật tố tụng. 2. Hoàn cảnh phát sinh tranh chấp[7] Ngày 27/12/2002 Công ty TNHH Xuân Mai Công ty Xuân Mai được UBND tỉnh Hoà Bình cho phép xây dựng nhà máy sản xuất xi măng tại xã Thành Lập, Huyện Lương Sơn, Hoà Bình. Ngày 4/7/2005 Công ty Xuân Mai nộp đơn đăng ký nhãn hiệu và ngày 16/5/2007, tại quyết định số 5716/QĐ-SHTT, Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam Cục SHTT đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu GCN ĐKNH số 82099 “Trung Sơn – xi măng Pooc Lăng hỗn hợp – Hoà Bình – Việt Nam, hình” cho sản phẩm xi măng của Công ty. Ngày 8/12/2010 Cục SHTT ra quyết định số 2470/QĐ- SHTT hủy bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNH số 82099 huỷ bỏ cụm từ “Trung Sơn” với lý do cụm từ Trung Sơn trùng với thành phần phân biệt trong tên “Dự án Nhà máy xi măng Trung Sơn” của Công ty Cổ phần tập đoàn Xây dựng và Du lịch Bình Minh Công ty Bình Minh, là tên thương mại của Công ty Bình Minh được xác lập trước ngày nhãn hiệu theo GCN ĐKNH số 82099 nộp đơn đăng ký. Công ty Xuân Mai khiếu nại quyết định số 2470/QĐ- SHTT. Ngày 13/5/2011, Cục SHTT đã có Quyết định giải quyết khiếu nại số 904/QĐ-SHTT với nội dung không chấp nhận khiếu nại của công ty Xuân Mai. Công ty Xuân Mai không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Cục SHTT nên ngày 14/7/2011 đã khởi kiện tại Toà án yêu cầu hủy bỏ quyết định số 2470/QĐ- SHTT. Tại phiên tòa sơ thẩm, người bị khởi kiện, Cục SHTT trình bày hai lý do làm căn cứ cho Quyết định số 2470/QĐ- SHTT i Tên gọi Nhà máy xi măng Trung Sơn là chỉ dẫn thương mại dưới dạng tên thương mại của công ty Bình Minh. Dự án Nhà máy xi măng Trung Sơn của Công ty Bình Minh là dự án có quy mô lớn, được Chính phủ, UBND tỉnh Hoà Bình phê duyệt, cấp phép theo các trình tự, thủ tục từ nhiều năm. Công ty Xuân Mai đăng ký nhãn hiệu Trung Sơn cho sản phẩm xi măng sau khi Chính phủ và các cấp có thẩm quyền đã có các quyết định liên quan đến tên Dự án Nhà máy xi măng Trung Sơn của Công ty Bình Minh; ii Công ty Xuân Mai không được các cơ quan chức năng cho phép sử dụng tên địa danh Trung Sơn làm tên nhà máy hay sản phẩm xi măng của Công ty. Công ty Xuân Mai cũng chưa chứng minh được dấu hiệu Trung Sơn đã được thừa nhận và sử dụng rộng rãi cho cho sản phẩm xi măng và không có tài liệu nào thể hiện dự án Nhà máy xi măng Hoà Bình của Công ty Xuân Mai mang tên Trung Sơn. Việc cấp GCN ĐKNH số 82099 cho Công ty Xuân Mai có cụm từ “Trung Sơn” sẽ gây nhầm lẫn với hoạt động của Công ty Bình Minh nếu không được ngăn chặn sẽ dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh và không phù hợp với quy định tại điểm g, khoản 2, Điều 6 Nghị định số 63/CP[8]. Công ty Bình Minh người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày, trong quá trình làm thủ tục đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cho sản phẩm, Công ty phát hiện trên vỏ bao xi măng của Công ty Xuân Mai có in chữ “Trung Sơn” trùng với tên Nhà máy xi măng Trung Sơn của Công ty Bình Minh nên ngày 01/9/2010 bằng Công văn số 123/CV-CTBT gửi Cục SHTT đề nghị hủy bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNH số 82099 của Công ty Xuân Mai. Công ty Bình Minh cho rằng, Công ty Xuân Mai sử dụng nhãn hiệu “Trung Sơn” cho sản phẩm xi măng trùng với tên “Dự án Nhà máy xi măng Trung Sơn” của Công ty Bình Minh đã được Thủ tướng Chính phủ và UBND tỉnh Hoà bình cấp phép trước khi Công ty Xuân Mai nộp đơn xin đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Cụ thể, Dự án này đã được UBND tỉnh Hoà Bình cấp quyết định cho phép thực hiện từ ngày 13/8/2003. Ngày 15/11/2004 UBND tỉnh Hoà Bình ban hành Quyết định số 2269/QĐ-UBthu hồi m2 đất. Ngày 06/4/2006, Thủ tướng Chính phủ, bằng văn bản số 535/TTg-CN cho phép đầu tư Nhà máy xi măng Trung Sơn công suất tấn Clanhke tại huyện Lương Sơn, Hòa Bình. Trong quá trình triển khai dự án, Công ty Bình Minh đã có nhiều hoạt động đầu tư. Công ty Xuân Mai có trụ sở gần Công ty Bình Minh nên biết dự án này nhưng vẫn đăng ký Nhãn hiệu trên là hành vi cạnh tranh không lành mạnh, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty Bình Minh. Tại bản án hành chính sơ thẩm số 01/2012/HCST ngày 24/02/2012 của TAND tỉnh Hoà Bình, căn cứ vào mục 5, mục 6 Điều 88, Điều 90, điều 91 Luật Sở hữu trí tuệ SHTT chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty Xuân Mai, hủy bỏ Quyết định số 2470/QĐ-SHTT ngày 08/12/2010 về việc hủy bỏ hiệu lực GCN ĐKNH số 82099 và Quyết định số 904/QĐ-SHTT ngày 13/5/2011. Ngày 29/2/2012 Công ty Bình Minh kháng cáo toàn bộ bản án. Ngày 06/3/2012, Cục SHTT kháng cáo đề nghị xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm. Ngày 09/4/2013, Toà Phúc thẩm TANDTC đã tuyên bản án với nội dung bác đơn khởi kiện của Công ty Xuân Mai đối với yêu cầu hủy bỏ Quyết định số 2470/QĐ-SHTT về việc hủy bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNH số 82099 như đã được trình bày ở trên[9]. 3. Áp dụng pháp luật Vụ án trên được xét xử sơ thẩm vào ngày 24/02/1012 và xét xử phúc thẩm vào ngày 09/4/2013, là thời điểm Luật SHTT, BLDS năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định của BLDS và Luật SHTT về SHTT đã có hiệu lực nhưng trong vụ án này, Tòa án đã áp dụng quy định của BLDS năm 1995 và Nghị định 63/CP quy định chi tiết về SHCN để giải quyết. Cụ thể, trong bản án phúc thẩm, Tòa án đã áp dụng điều 29 khoản 1, điểm g khoản 2 Điều 6 Nghị định 63/CP. Việc áp dụng pháp luật như vậy là phù hợp vì văn bằng bảo hộ nhãn hiệu trên được cấp căn cứ theo BLDS năm 1995 và Nghị định số 63/CP. Thực tế, Tòa phúc thẩm cũng đã lý giải vấn đề này trong bản án của mình Tại khoản 3 Điều 220 Luật SHTT quy định “Mọi quyền và nghĩa vụ theo văn bản bảo hộ được cấp theo quy định của pháp luật có hiệu lực trước ngày Luật này có hiệu lực và các thủ tục duy trì, gia hạn, sửa đổi, chấm dứt, huỷ bỏ hiệu lực, chuyển giao quyền sử dụng, chuyển nhượng quyền sở hữu, giải quyết tranh chấp liên quan đến văn bằng bảo hộ đó được áp dụng theo quy định của Luật này, trừ căn cứ huỷ bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ thì áp dụng quy định pháp luật có hiệu lực đối với việc xét cấp văn bằng bảo hộ đó”. Trong vụ án này, vấn đề tranh chấp liên quan đến căn cứ huỷ bỏ một phần hiệu lực của văn bằng bảo hộ nhãn hiệu nên phải áp dụng các văn bản pháp luật có hiệu lực vào thời điểm xem xét cấp văn bằng bảo hộ đó, cụ thể là BLDS năm 1995 và Nghị định 63/CP quy định chi tiết về SHCN. 4. Vấn đề pháp lý phát sinh Lý do huỷ bỏ cụm từ “Trung Sơn” trong nhãn hiệu đã được bảo hộ Lý do mà Công ty Bình Minh yêu cầu Cục SHTT hủy bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNH số 82099 “Trung Sơn – xi măng Pooc Lăng hỗn hợp – Hoà Bình – Việt Nam, hình” của Công ty Xuân Mai là cụm từ “Trung Sơn” trong nhãn hiệu này trùng với tên “Dự án Nhà máy xi măng Trung Sơn” của Công ty Bình Minh đã được Thủ tướng Chính phủ và UBND tỉnh Hòa Bình cấp phép trước khi Công ty Xuân Mai nộp đơn đăng ký nhãn hiệu nêu trên. Lý do để Cục SHTT ra Quyết định hủy bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNH số 82099 nêu trên là cụm từ “Trung Sơn” trong nhãn hiệu nàytrùng với thành phần phân biệt trong tên Dự án Nhà máy xi măng Trung Sơn của Công ty Bình Minh. Như vậy, Cục SHTT và Công ty Bình Minh đều cho rằng cụm từ “Trung Sơn” trong nhãn hiệu đã được bảo hộ của Công ty Xuân Mai trùng với thành phần phân biệt trong tên Dự án Nhà máy xi măng Trung Sơn của Công ty Bình Minh. Vì vậy, việc bảo hộ nhãn hiệu nêu trên sẽ xung đột quyền với việc bảo hộ tên thương mại của Công ty Bình Minh. Tại phiên toà sơ thẩm và phúc thẩm, Cục SHTT và Công ty Bình Minh đều nhấn mạnh tên gọi Nhà máy xi măng Trung Sơn là chỉ dẫn thương mại dưới dạng tên thương mại của công ty Bình Minh, Công ty Xuân Mai đăng ký nhãn hiệu Trung Sơn cho sản phẩm xi măng sau khi Chính phủ và các cấp có thẩm quyền đã có các quyết định liên quan đến tên Dự án Nhà máy xi măng Trung Sơn của công ty Bình Minh. Ngoài ra, đại diện của Cục SHTT còn đưa ra thêm một lý do khác Công ty Xuân Mai không được các cơ quan chức năng cho phép sử dụng tên địa danh Trung Sơn làm tên nhà máy hay sản phẩm xi măng của Công ty. Hội đồng xét xử tại phiên tòa phúc thẩm cũng nhận định tên dự án “Nhà máy sản xuất xi măng Trung Sơn” đã được công ty Bình Minh sử dụng, là tên của Nhà máy và dùng để chỉ sản phẩm trong tương lai. Trung Sơn là chỉ dẫn thương mại của Nhà máy sản xuất xi măng trong tương lai[10]. Các lập luận này đã cho thấy sự tồn tại hiện tượng xung đột quyền trong bảo hộ tên thương mại và nhãn hiệu và về nguyên tắc, đối tượng nào xác lập quyền sau sẽ bị hủy bỏ hoặc cấm sử dụng[11]. Tuy nhiên, trong bản án phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ dựa vào lý do là Công ty Xuân Mai không nhận được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền đối với việc sử dụng tên địa danh Trung Sơn làm nhãn hiệu để tuyên sửa bản án sơ thẩm, bác đơn khởi kiện của Công ty Xuân Mai đối với yêu cầu hủy bỏ Quyết định số2470/QĐ-SHTT ngày 8/12/2012 của Cục trưởng Cục SHTT[12]. Như vậy, ở đây nảy sinh một số vấn đề pháp lý i tên Nhà máy xi măng Trung Sơn trong Dự án nêu trên có được pháp luật bảo hộ là tên thương mại không? Nếu câu trả lời là có thì ở đây đã có hiện tượng xung đột quyền trong bảo hộ nhãn hiệu nêu trên và tên thương mại của Nhà máy xi măng Trung Sơn vì cụm từ “Trung Sơn” trong nhãn hiệu nêu trên có thể làm người tiêu dùng không chỉ liên tưởng đến tên địa danh Trung Sơn mà còn liên tưởng đến cơ sở kinh doanh, gây nhầm lẫn về nguồn gốc sản phẩm sản phẩm do Nhà máy xi măng Trung Sơn sản xuất. Trong trường hợp này, một trong hai đối tượng trên sẽ không được pháp luật bảo hộ, phụ thuộc vào việc quyền SHCN đối với đối tượng nào được xác lập trước. Để trả lời câu hỏi này cần xác định được điều kiện để tên thương mại được bảo hộ, thời điểm bảo hộ tên thương mại; ii Việc sử dụng tên địa danh, cụ thể trong trường hợp này là tên xã Trung Sơn làm dấu hiệu trong nhãn hiệu “Trung Sơn – xi măng Pooc Lăng hỗn hợp – Hoà Bình – Việt Nam, hình” có cần sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền hay không? Điều kiện để tên địa danh được sử dụng làm nhãn hiệu và được pháp luật bảo hộ là gì; iii Nếu căn cứ hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ nhãn hiệu được đưa ra bởi Cục SHTT trong Quyết định số 2470/QĐ-SHTT là nhãn hiệu được bảo hộ có chứa dấu hiệu trùng với thành phần phân biệt trong tên thương mại của Nhà máy xi măng Trung Sơn nhưng Toà án khi tuyên bản án dựa trên căn cứ nhãn hiệu không đáp ứng điều kiện bảo hộ vì không có sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền thì bản án đó có thuyết phục hay không? Chúng ta sẽ xem xét các vấn đề nêu trên. Điều kiện để tên thương mại được bảo hộ, thời điểm bảo hộ tên thương mại Như đã nêu ở trên, trong vụ án này, vấn đề pháp lý hết sức thú vị được đặt ra là thời điểm bảo hộ tên thương mại là thời điểm nào? Liệu tên doanh nghiệp hình thành trong tương lai tên doanh nghiệp trong dự án thành lập doanh nghiệp có thể được pháp luật bảo hộ là tên thương mại? Chủ đầu tư có quyền yêu cầu bảo vệ tên thương mại của doanh nghiệp hình thành trong tương lai khi có tranh chấp? Theo quy định tại Điều 76 Luật SHTT, điều kiện chung để tên thương mại được bảo hộ là tên thương mại phải có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên thương mại đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Khi đáp ứng điều kiện bảo hộ thì quyền SHCN đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký[13]. Điều 162 Nghị định số 103/2006/NĐ-CP quy định “Phạm vi quyền đối với tên thương mại được xác định theo phạm vi bảo hộ tên thương mại, gồm tên thương mại, lĩnh vực kinh doanh và lãnh thổ kinh doanh trong đó tên thương mại được chủ thể mang tên thương mại sử dụng một cách hợp pháp. Việc đăng ký tên gọi của tổ chức, cá nhân kinh doanh trong thủ tục kinh doanh không được coi là sử dụng tên gọi đó mà chỉ là một điều kiện để việc sử dụng tên gọi đó được coi là hợp pháp”. Với các quy định trên, thời điểm tên thương mại được bảo hộ là thời điểm được chủ thể mang tên thương mại đó sử dụng hợp pháp trên thực tế. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, để được pháp luật bảo hộ, bên cạnh các điều kiện được quy định tại Điều 76 và Điều 78 Luật SHTT, tên thương mại trước hết phải là tên của cơ sở kinh doanh, có nghĩa là cơ sở kinh doanh đó phải được hình thành và được đăng ký kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật. Mặc dù việc đăng ký tên gọi của tổ chức, cá nhân kinh doanh trong thủ tục kinh doanh không được coi là sử dụng tên gọi đó nhưng đó là một điều kiện để việc sử dụng tên gọi đó được coi là hợp pháp. Do đó trong trường hợp tranh chấp cụ thể này, Nhà máy xi măng Trung Sơn chưa được thành lập, chưa được đăng ký kinh doanh do dó chưa thể phát sinh quyền SHCN đối với tên thương mại là tên của nhà máy. Một điều kiện quan trọng khác để tên thương mại được bảo hộ là phải được chính chủ thể mang tên thương mại đó sử dụng một cách hợp pháp. Vì xét về bản chất, chức năng của tên thương mại là nhằm phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên thương mại với chủ thể kinh doanh khác trong cùng khu vực kinh doanh và lĩnh vực kinh doanh. Tại phiên tòa phúc thẩm, tòa án nhận định tên gọi Nhà máy xi măng Trung Sơn đã được công ty Bình Minh sử dụng trên thực tế. Vấn đề đặt ra, tiêu chí nào để xác định tên thương mại đã được sử dụng hợp pháp trên thực tế? Điều 124 khoản 6 Luật SHTT Việt Nam quy định sử dụng tên thương mại “là việc thực hiện hành vi nhằm mục đích thương mại bằng cách dùng tên thương mại để xưng danh trong các hoạt động kinh doanh, thể hiện tên thương mại trong các giấy tờ giao dịch, biển hiệu, sản phẩm, hàng hóa, bao bì hàng hóa và phương tiện cung cấp dịch vụ, quảng cáo”. Căn cứ vào Điều 123 Luật SHTT, các hành vi sử dụng trên phải do chủ sở hữu tên thương mại hoặc chủ thể khác được chủ sở hữu tên thương mại cho phép thực hiện. Trong vụ án trên, Cục SHTT và tòa án lập luận tên gọi Nhà máy xi măng Trung Sơn đã được Công ty Bình Minh sử dụng trên thực tế trong hoạt đầu tư như giải phóng mặt bằng, thu hồi đất… Tuy nhiên, ở đây cần làm rõ là các giao dịch trên do Công ty Bình Minh thực hiện với tư cách là chủ đầu tư chứ không phải là do Nhà máy xi măng Trung Sơn tiến hành. Như vậy, Công ty Bình Minh là chủ đầu tư nhưng không phải là chủ sở hữu đối với tên thương mại “Nhà máy xi măng Trung Sơn”. Với cách lập luận này, tên của “Nhà máy xi măng Trung Sơn” chưa được doanh nghiệp mang tên thương mại đó sử dụng trên thực tế do đó chưa làm phát sinh quyền SHCN đối với tên thương mại này. Vì vậy, chúng tôi cho rằng trong trường hợp này, tên nhà máy xi măng Trung Sơn mặc dù được công ty Bình Minh sử dụng trong các hoạt động đầu tư nhưng không nên xem việc sử dụng đó là điều kiện để bảo hộ tên thương mại theo tinh thần Điều 123 và Điều 124 Luật SHTT. Như vậy, tên doanh nghiệp trong dự án thành lập doanh nghiệp chưa thể được pháp luật SHTT bảo hộ là tên thương mại. Vì vậy, lý do hủy bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNH số 82099 vì trùng với thành phần phân biệt trong tên Dự án Nhà máy xi măng Trung Sơn của Công ty Bình Minh mà Cục SHTT đưa ra là không thuyết phục. Điều kiện để tên địa danh được sử dụng làm nhãn hiệu Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, Cục SHTT Việt Nam đều khẳng định, Công ty Xuân Mai không được cơ quan có thẩm quyền cho phép sử dụng tên địa danh “Trung Sơn” làm tên nhà máy hay cho sản phẩm xi măng. Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử, căn cứ vào điểm g, khoản 2 điều 6 Nghị định 63/CP, nhận định “Đơn xin cấp GCN ĐKNH của Công ty Xuân Mai phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép sử dụng tên địa danh “Trung Sơn” trong nhãn hiệu của mình thì nhãn hiệu này mới được Nhà nước bảo hộ”. Vậy câu hỏi đặt ra, nhãn hiệu “Trung Sơn – xi măng Pooc Lăng hỗn hợp – Hòa Bình – Việt Nam, hình” của công ty Xuân Mai có thực sự không đáp ứng điều kiện bảo hộ hay không? Điều 29 Nghị định 63/CP quy định rất chung chung về các trường hợp hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ các đối tượng SHCN, trong đó điểm d khoản 2 Điều 29 quy định một trong những lý do hủy bỏ là “Đối tượng được bảo hộ không đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ”. Điểm g, khoản 2 Điều 6 Nghị định 63/CP quy định không bảo hộ nhãn hiệu “Dấu hiệu, tên gọi bao gồm cả ảnh, tên, biệt hiệu, bút danh, hình vẽ, biểu tượng giống hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với hình quốc kì, quốc huy, lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân, địa danh, các tổ chức của Việt Nam cũng như của nước ngoài nếu không được các cơ quan, người có thẩm quyền tương ứng cho phép”. Thông tư số 3055 cũng yêu cầu trong trường hợp dấu hiệu đăng ký bảo hộ nhãn hiệu được quy định trong khoản 2 Điều 6 Nghị định 63/CP thì trong hồ sơ đăng ký nhãn hiệu phải có giấy phép của cơ quan có thẩm quyền[14]. Tuy nhiên, không có sự giải thích từ quy định của pháp luật về việc sử dụng tên địa danh trong trường hợp nêu trên tên địa danh yêu cầu sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền là tên nước, tên vùng lãnh thổ, tên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hay bao gồm cả tên xã, huyện? Tên địa danh có cần gắn với đặc tính đặc thù của sản phẩm đặc sản địa phương hay không? Trường hợp nào việc sử dụng tên địa danh làm nhãn hiệu cần được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền? Trước khi Luật SHTT và các văn bản hướng dẫn Luật SHTT có hiệu lực, những vấn đề trên chưa được pháp luật quy định cụ thể. Điều này đã tạo cho cơ quan có thẩm quyền quyền hạn rất lớn trong việc áp dụng pháp luật khi xác định trường hợp nào tên địa danh khi sử dụng làm nhãn hiệu cần được cơ quan có thẩm quyền cho phép, trường hợp nào không cần sự cho phép. Nhằm thống nhất vấn đề này, Cục SHTT đã có một số quy định hướng dẫn trong Quy chế xét nghiệm nhãn hiệu, trong đó quy định tên địa lý hành chính có thể được chấp nhận làm nhãn hiệu thông thường nếu “dấu hiệu chứa tên địa lý đi kèm với các thành phần phân biệt khác”[15]. Ngoài ra, Quy chế này cũng quy định không chấp nhận làm nhãn hiệu thông thường dấu hiệu chứa duy nhất tên địa lý hoặc phần tên địa lý nổi bật hơn các thành phần khác. Tên địa lý được đề cập ở đây thông thường là từ cấp huyện trở lên, có thể ở cấp thấp hơn như cấp xã, làng… nếu các tên địa lý cấp thấp hơn có danh tiếng cho sản phẩm, dịch vụ tương ứng[16]. Trong trường hợp nêu trên, Trung Sơn là tên địa danh cấp xã, sản phẩm mang nhãn hiệu này là xi măng, không phải là đặc sản địa phương do đó không cần thiết sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền. Khi cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu “Trung Sơn – xi măng Pooc Lăng hỗn hợp – Hòa Bình – Việt Nam, hình” cho Công ty Xuân Mai, Cục SHTT phải biết sự tồn tại của các quy định trong Điều 6 Nghị định 63/CP và các quy định trong Quy chế xét nghiệm nhãn hiệu của Cục SHTT nhưng GCN ĐKNH cho nhãn hiệu trên vẫn được cấp. Điều này cho thấy, trong trường hợp này, địa danh là tên xã là không cần thiết phải được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền. Ngay trong Quyết định số 2470/QĐ-SHTT huỷ bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNH số 82099, Cục SHTT cũng không đưa vấn đề này ra như là căn cứ hủy bỏ nhãn hiệu mà vấn đề này chỉ được đưa ra tại phiên tòa cấp sơ thẩm và phúc thẩm. Với các lập luận nêu trên, có thể thấy rằng, căn cứ hủy bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNH số 82099 là nhãn hiệu không đáp ứng điều kiện bảo hộ do không có sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi đăng ký là không thuyết phục. Về căn cứ sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm Như chúng tôi đã phân tích ở trên, trong Quyết định số 2470/QĐ-SHTT, căn cứ hủy bỏ một phần hiệu lực GCN ĐKNH số 82099 “Trung Sơn – xi măng Pooc Lăng hỗn hợp – Hòa Bình – Việt Nam, hình” là phần chữ “Trung Sơn” trong nhãn hiệu này trùng với thành phần phân biệt trong tên Dự án Nhà máy xi măng Trung Sơn của Công ty Bình Minh. Dự án Nhà máy xi măng Trung Sơn là chỉ dẫn thương mại dưới dạng tên thương mại của Công ty Bình Minh, được xác lập trước ngày đăng ký nhãn hiệu trên. Trong căn cứ hủy bỏ một phần GCN ĐKNH được đưa ra trong Quyết định số 2470/QĐ-SHTT của Cục SHTT và trong Công văn số 123/CV-CTBT của công ty Bình Minh yêu cầu hủy bỏ một phần GCN ĐKNH nêu trên không một lần đề cập đến lí do “Công ty Xuân Mai không được các cơ quan chức năng cho phép sử dụng tên địa danh Trung Sơn làm tên nhà máy hay sản phẩm xi măng của công ty”. Tuy nhiên, tại phiên toà cấp sơ thẩm và phúc thẩm, Cục SHTT đều đưa ra lý do này như là một trong hai căn cứ cho việc ra Quyết định số 2470/QĐ-SHTT. Điều cần lưu ý là Tòa án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào lý do này để sửa bản án sơ thẩm. Trong tố tụng hành chính, thẩm quyền của Hội đồng xét xử là xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bị khởi kiện, quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan[17]. Muốn đánh giá tính hợp pháp của một quyết định hành chính thì phải xem xét quyết định đó có được ban hành đúng pháp luật hay không. Cụ thể cần xem xét quyết định đó có được ban hành theo đúng thẩm quyền, đúng thủ tục, đúng hình thức hay không? Việc áp dụng các quy phạm pháp luật làm căn cứ ban hành quyết định có đúng hay không? Trở lại tình huống đang được bình luận, khi đánh giá về tính hợp pháp của Quyết định số 2470 về hủy bỏ một phần GCNĐ KNH số 82099, một trong những vấn đề cốt lõi là Tòa án xem xét căn cứ huỷ bỏ một phần nhãn hiệu trên có đúng pháp luật hay không? Như đã phân tích ở trên, quyết định số 2470/QĐ-SHTT không căn cứ vào lý do “Công ty Xuân Mai không được các cơ quan chức năng cho phép sử dụng tên địa danh Trung Sơn làm tên nhà máy hay sản phẩm xi măng của công ty”để làm cơ sở để hủy bỏ một phần nhãn hiệu nêu trên nên về nguyên tắc Tòa án sẽ không xem xét đến căn cứ này khi đánh giá tính hợp pháp của Quyết định số 2470/QĐ-SHTT. Những lập luận, chứng cứ được đưa ra bởi người bị kiện tại phiên tòa phải bổ sung, chứng minh cho căn cứ pháp lý đã được đưa ra trong Quyết định hành chính, người bị kiện không thể đưa ra căn cứ pháp lý hoàn toàn mới để bổ sung vào căn cứ pháp lý cho việc ban hành Quyết định hành chính. Trong vụ án này, trong căn cứ pháp lý để hủy bỏ một phần nhãn hiệu trong Quyết định số 2470/QĐ-SHTT và lời trình bày của người bị kiện tại Tòa án đã có sự thiếu thống nhất, thể hiện căn cứ pháp lý cho việc ban hành Quyết định số 2470/QĐ-SHTT là thiếu chặt chẽ, chưa đảm bảo về việc tuân thủ pháp luật. Vì vậy, việc Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án của toà án cấp sơ thẩm theo hướng ngược lại, căn cứ vào lí do “Công ty Xuân Mai không được các cơ quan chức năng cho phép sử dụng tên địa danh Trung Sơn làm tên nhà máy hay sản phẩm xi măng của công ty” là không phù hợp vì đây không phải là căn cứ mà Cục SHTT đã nêu trong Quyết định số 2470/QĐ-SHTT. 5. Hoàn cảnh tương tự trong tương lai Trên thực tế hiện nay, xung đột quyền trong bảo hộ tên thương mại và nhãn hiệu cũng như việc hủy bỏ văn bằng bảo hộ nhãn hiệu vì không đáp ứng điều kiện bảo hộ xảy ra khá phổ biến. Trong vụ án trên, giải quyết xung đột quyền trong bảo hộ tên thương mại và nhãn hiệu cũng như xác định điều kiện bảo hộ tên thương mại được căn cứ theo văn bản pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, đối với việc xem xét căn cứ hủy bỏ một phần GCNĐ KNH, Tòa án đã áp dụng văn bản quy phạm pháp luật được ban hành trước thời điểm Luật SHTT và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này có hiệu lực. Nếu hoàn cảnh tương tự xảy ra thì chúng ta giải quyết như thế nào trên cơ sở của những quy định của pháp luật hiện hành? Văn bản pháp luật Việt Nam hiện hành cho phép sử dụng tên địa danh để đăng ký nhãn hiệu với những quy định chi tiết, cụ thể hơn nếu so với quy định pháp luật trước đây. Điều 873 Luật SHTT quy định về quyền đăng ký nhãn hiệu, trong đó khẳng định “đối với địa danh, dấu hiệu khác chỉ nguồn gốc địa lý đặc sản địa phương của Việt Nam thì việc đăng ký phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép”. Cụ thể hóa vấn đề này, Điểm 10 Thông tư số 05/2013/TT-BKHCN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 01/2007/TT-BKHCN hướng dẫn thi hành Nghị định 103/2006/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật SHTT về SHCN đã sửa đổi Điểm và bổ sung Điểm của Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN. Điểm xác định thẩm quyền cấp văn bản cho phép đăng ký nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận có chứa địa danh hoặc dấu hiệu khác chỉ nguồn gốc địa lý đặc sản địa phương của Việt Nam là Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có khu vực địa lý tương ứng với địa danh hoặc dấu hiệu khác chỉ dẫn nguồn gốc địa lý của đặc sản địa phương. Điểm bổ sung tiêu chí xác định địa danh, dấu hiệu khác chỉ nguồn gốc địa lý của sản phẩm. Liên quan đến vấn đề đăng ký tên địa danh làm nhãn hiệu, Thông tư này quy định dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của sản phẩm là dấu hiệu dùng cho sản phẩm của địa phương và có ý nghĩa chỉ dẫn nguồn gốc địa lý của sản phẩm chỉ dẫn rằng sản phẩm có nguồn gốc từ địa phương đó. Dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của sản phẩm thường là địa danh, nhưng cũng có thể là dấu hiệu biểu trưng của địa phương hình ảnh các sự vật tiêu biểu của địa phương, như biểu tượng, bản đồ, cờ, huy hiệu, thắng cảnh, công trình đặc biệt của địa phương…, hoặc cũng có thể là bất kỳ dấu hiệu nào khác. Địa danh có thể là tên gọi hiện hành hay tên gọi trong lịch sử, tên gọi chính thức hoặc tên gọi dân gian của một khu vực địa lý xác định theo địa giới hành chính hay các phương thức địa lý học. Một địa danh, dấu hiệu biểu trưng của địa phương sử dụng cho sản phẩm thông thường không phải là đặc sản có thể có hoặc không có ý nghĩa chỉ dẫn nguồn gốc địa lý của sản phẩm, tùy thuộc vào sản phẩm và thực tế sử dụng địa danh, dấu hiệu biểu trưng của địa phương. Một trong những trường hợp tên địa danh có ý nghĩa chỉ dẫn nguồn gốc địa lý của sản phẩm là trường hợp dùng cho sản phẩm khai thác nguyên liệu thiên nhiên than, sắt, thép, nhôm, xi măng, đá, muối, gỗ… ở địa phương và dùng cho những sản phẩm thuộc các ngành công nghiệp phát triển ở địa phương. Với những quy định trên, việc sử dụng tên địa danh để cấu thành nhãn hiệu nói chung, cho các sản phẩm không phải là đặc sản địa phương đã được quy định cụ thể hơn, hạn chế phần nào những vấn đề pháp lý phát sinh. Xem thêm bài viết về “Tên thương mại” Xung đột quyền trong bảo hộ Nhãn hiệu và Tên thương mại – TS. Lê Thị Nam Giang CHÚ THÍCH * TS Luật học, Phó Trưởng Khoa Luật Quốc tế, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh. * ThS, Luật sư, Trưởng VPLS Phạm và Liên danh. [1] Xem khoản 16 Điều 4 Luật SHTT nước CHXHCN Việt Nam năm 2005, sửa đổi năm 2009. [2] Điều 73 Luật SHTT liệt kê các dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu. Điều 74 Luật SHTT quy định về khả năng phân biệt của nhãn hiệu, trong đó có liệt kê các trường hợp mà nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt. [3] Trừ trường hợp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ trên cơ sở thực tiễn sử dụng. Xem thêm Điều 6 khoản 3 Luật SHTT [4] Được quy định tại khoản 21 Điều 4 Luật SHTT. [5] Xung đột quyền trong bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại xảy ra khi i dấu hiệu được bảo hộ trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn; ii các dấu hiệu này được bảo hộ đồng thời dưới hình thức tên thương mại và nhãn hiệu; iii dấu hiệu này được bảo hộ cho các chủ thể quyền khác nhau. Về vấn đề xung đột quyền trong bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại, xem thêm bài viết Lê Thị Nam Giang, Xung đột quyền trong bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại, Tạp chí Khoa học pháp lý số 3/2013, tr. 54 – 62. [6] Xem chi tiết tại Điều 17 Nghị định 103/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật SHTT về sở hữu công nghiệp Nghị định 103/2006/NĐ-CP. [7] Các chi tiết được trình bày trong Phần này được trích từ Bản án số 56/2013/HC-PT ngày 09/4/2013. [8] Điểm g, khoản 2, Điều 6 Nghị định số 63/CP quy định chi tiết về SHCN quy định không được sử dụng làm nhãn hiệu “dấu hiệu, tên gọi bao gồm cả ảnh, tên, biệt hiệu, bút danh, hình vẽ, biểu tượng giống hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với hình quốc kì, quốc huy, lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân, địa danh, các tổ chức của Việt Nam cũng như của nước ngoài nếu không được các cơ quan, người có thẩm quyền tương ứng cho phép”. [9] Xem nội dung Bản án của Toà phúc thẩm TANDTC được trích dẫn ở trên. [10] Xem chi tiết trong nội dung phần “Nhận thấy” trong Bản án số 56/2013/HC-PT ngày 09/4/2013. [11] Cụ thể trong trường hợp nhãn hiệu bảo hộ có chứa yếu tố xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại, bên bị xâm phạm quyền có thể yêu cầu Cục SHTT hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ hoặc/và khởi kiện ra tòa án yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp tên thương mại chứa đựng yếu tố xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu đã được bảo hộ, chủ sở hữu nhãn hiệu có quyền yêu cầu tòa án cấm bên vi phạm sử dụng tên thương mại đó và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Chủ sở hữu nhãn hiệu cũng có quyền đề nghị Cơ quan đăng ký kinh doanh yêu cầu doanh nghiệp có tên xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu của mình phải thay đổi tên gọi cho phù hợp. Để có thể kết luận có hay không yếu tố xâm phạm quyền, cần căn cứ vào ít nhất hai yếu tố sau i Việc sử dụng dấu hiệu bị xem xét có thuộc quyền sử dụng hợp pháp của người sử dụng không? Để đưa ra được kết luận về vấn đề này, cần xem đối tượng được xem xét có được pháp luật bảo hộ không, bảo hộ trong phạm vi nào; ii đối tượng được xem xét có trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại được bảo hộ của chủ thể khác không? Về vấn đề này, xem thêm bài viết Lê Thị Nam Giang, Xung đột quyền trong bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại, Tạp chí Khoa học pháp lý số 3/2013, tr. 54 – 62. [12] Xem nội dung phần “Xét thấy” trong Bản án số 56/2013/HC-PT ngày 09/4/2013 được trích dẫn trong bài viết. [13] Quy định tại Điều 63b Luật SHTT, Điều 63 Nghị định số 103/2006/NĐ-CP. [14] Xem Điểm ix khoản 1 Điều 8 Thông tư số 3055 [15] Cục SHTT. Quy chế xét nghiệm nhãn hiệu, 2010, Điểm [16] Cục SHTT. Quy chế xét nghiệm nhãn hiệu, 2010, Điểm [17] Xem khoản 1 Điều 163 Luật Tố tụng hành chính số 64/2010/QH12 ngày 24/11/2010. Tác giả TS. Lê Thị Nam Giang & ThS. Phạm Vũ Khánh Toàn Nguồn Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 06/2013 79/2013 – 2013, Trang 69-79 Nguồn Fanpage Luật sư Online
- Bản án nói chung và bản án hình sự sơ thẩm nói riêng do Tòa án ban hành nên là văn bản tố tụng tư pháp của Nhà nước nhằm điều chỉnh quan hệ pháp luật giữa Nhà nước với cá nhân, cơ quan, tổ chức. Qua nghiên cứu các quy định về viết bản án hình sự sơ thẩm; công tác kiểm tra giám đốc án, cũng như nghiên cứu một số vụ án, chúng tôi thấy còn nổi lên một số tồn tại trong việc viết bản án. Về hình thức, bản án là một trong các “văn bản tố tụng” [1] của Tòa án được soạn thảo với mẫu thống nhất theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự BLTTHS. Việc soạn thảo bản án hình sự sơ thẩm đảm bảo được các yêu cầu là một nội dung rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự, nhất là hiện nay, việc công bố bản án là một yêu cầu bắt buộc. Đặc biệt là Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/9/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC cũng đã ban hành mẫu và hướng dẫn viết bản án hình sự sơ thẩm thống nhất trong toàn ngành. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các quy định về viết bản án hình sự sơ thẩm; công tác kiểm tra giám đốc án, cũng như nghiên cứu một số vụ án, chúng tôi thấy còn nổi lên một số tồn tại trong việc viết bản án. 1. Về thể thức bản án Theo thống nhất tại hội nghị trực tuyến tập huấn viết bản án năm 2017 của Tòa án nhân dân tối cao thì thể thức và kỹ thuật soạn thảo bản án được thực hiện theo quy định tại Nghị quyết số 351/2017/UBTVQH 14 ngày 14/3/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy còn có một số bản án viết chưa đúng cỡ chữ, tùy tiện viết hoa; viết hoa danh từ riêng chỉ tên người, viết hoa tên địa lý hoặc tên cơ quan, tổ chức...chưa đúng thậm chí ngay trong một bản án nhưng tồn tại hai cách viết khác nhau về cùng một nội dung. Ví dụ “Huân chương chiến sĩ vẻ vang” phải là Huân chương Chiến sĩ vẻ vang; hoặc “Thành phần hội đồng xét xử Sơ thẩm gồm có” phải là “Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có”... 2. Về nội dung của bản án Phần mở đầu Phần này phản ánh các nội dung theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 BLTTHS gồm Thông tin của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và những người khác được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa; thời gian, địa điểm mở phiên tòa, xử công khai hay xử kín...Tuy phần này được xác định là mẫu thống nhất nhưng giữa các bản án được công bố cũng còn nhiều nội dung chưa thống nhất là - Phần tiêu đề ở góc trái bản án Có bản án in đậm nội dung “Bản án số 04/2020/HS-ST ngày... tháng... năm” có bản án lại in thường; có bản án ghi “Bản án số 04/2020/HSST”. Có bản án lại “sáng tác” thêm mục “Vụ T và Tr; tội “Đánh bạc” sau số bản án và ngày tháng - là những nội dung mà mẫu bản án của TANDTC không hướng dẫn phải viết vào bản án. - Phần ghi thông tin về những người tiến hành tố tụng, thời gian địa điểm xét xử Cùng một nội dung đã được mẫu bản án hướng dẫn thống nhất nhưng trong thực tế nhiều bản án còn viết với nhiều hình thức khác nhau và chưa đúng mẫu bản án như Có bản án viết “Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có”, bản án khác lại viết “Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có”; hoặc “Các hội thẩm nhân dân 1. Ông Nguyễn Văn A; 2. Bà Nguyễn Thị B” thay vì phải là “Các hội thẩm nhân dân Ông Nguyễn Văn A; Bà Nguyễn Thị B”. Về địa điểm xét xử Có bản án viết “... tại trụ sở Tòa án nhân huyện C” hoặc “... tại phòng xử án Trung đoàn X, Quân khu Y” có bản án lại viết “... tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện C”. Theo chúng tôi, nếu vụ án được xét xử tại trụ sở Tòa án thì phải viết “tại phòng xử án” và nếu xét xử tại địa điểm khác ngoài trụ sở thì phải viết “tại hội trường”... mới chính xác. Có bản án chỉ viết “Ngày.. .tháng.. .năm, tại trụ sở Tòa án... xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số ... ngày.. .tháng.. .năm... với các bị cáo” là chưa phản ánh đầy đủ việc xét xử là công khai hay xử kín và theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số... ngày... tháng... năm nào như mẫu bản án đã hướng dẫn. Mục “Thư ký phiên tòa” Theo hướng dẫn thì chỉ cần ghi họ tên thư ký của Tòa án nào nhưng hiện nay cũng còn nhiều cách viết khác nhau như “Thư ký phiên tòa Ông Đinh Đức T”; “Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa Ông Nguyễn Văn Đ, Thư ký Tòa án nhân dân thành phố QN, tỉnh QN”; “Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa Ông Nguyễn Văn Đ, Thư ký Tòa án nhân dân thành phố QN” thay vì chỉ cần viết “Thư ký phiên tòa Ông Nguyễn Văn Đ, thư ký Tòa án nhân dân thành phố QN, tỉnh QN” là đủ. Về chức vụ của Kiểm sát viên, có bản án ghi “Kiểm sát viên” có bản án lại ghi “Kiểm sát viên trung cấp”, “Kiểm sát viên sơ cấp”.... Có vụ án, sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng vụ án phải hoãn nhiều lần thì HĐXX cũng ghi tất cả các quyết định hoãn phiên tòa vào phần này “Ngày... theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2020/QĐXXST-HS, ngày 29 tháng 7 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2020/QĐST-HSST, ngày 14 tháng 8 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2020/QĐST-HSST, ngày 24 tháng 8 năm 2020, đối với bị cáo...”; có bản án lại không ghi các quyết định này. - Phần lý lịch của bị cáo Hồ sơ vụ án phản ánh bị cáo không có bí danh hay tên gọi nào khác nhưng có bản án vẫn ghi “Tên gọi khác bí danh Không” là thừa. Có bản án không phản ánh nội dung “dân tộc, giới tính, tôn giáo, quốc tịch” của bị cáo. Bị cáo sinh ngày 02/7/2002, phạm tội ngày 30/6/2019 tức là khi phạm tội thì bị cáo mới 16 tuổi 11 tháng 28 ngày nhưng bản án chỉ ghi ở phần lý lịch bị cáo là “Sinh ngày 02/7/2002” mà thiếu mất đoạn “đến ngày thực hiện hành vi phạm tội bị cáo 16 tuổi 11 tháng 28 ngày”. Mặt khác, mẫu bản án số 27-HS ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/9/2017 của Hội đồng TANDTC hướng dẫn “nếu bị cáo trên 18 tuổi thì ghi ngày, tháng, năm sinh hoặc tuổi” theo chúng tôi là chưa thống nhất bởi tuổi của bị cáo chỉ được tính đến thời điểm Tòa án xét xử còn nếu ghi ngày tháng năm sinh của bị cáo thì đó là dữ liệu gắn với một con người suốt cả cuộc đời; đồng thời nếu ghi đầy đủ ngày tháng năm sinh của bị cáo sẽ đảm bảo thống nhất tất cả các bản án trong toàn ngành. + Về “nơi cư trú” của bị cáo Nhiều bản án vẫn dùng từ “Trú tại” theo mẫu bản án cũ phải ghi là “nơi cư trú” hoặc “nơi thường trú” cho phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Cư trú. Trường hợp bị cáo là quân nhân nhưng bản án chỉ ghi nơi cư trú của bị cáo là tên đơn vị của bị cáo Ví dụ “Nơi cư trú Đại đội 20, Bộ Tham mưu Quân khu X” mà không ghi đầy đủ địa danh địa lý nơi đơn vị của bị cáo đóng quân là chưa đầy đủ. Theo quy định tại Điều 44 Bộ luật Dân sự và Điều 16 Luật Cư trú thì Nơi cư trú của quân nhân đang thực hiện nghĩa vụ quân sự là nơi đơn vị của quân nhân đó đóng quân; nơi cư trú của sĩ quan quân đội, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng là nơi đơn vị người đó đóng quân, trừ trường hợp họ có nơi cư trú theo quy định tại khoản 1 Điều 40 Bộ luật Dân sự. + Về “trình độ văn hóa học vấn” Một số bản án còn nhầm lẫn giữa trình độ hiểu biết và trình độ chuyên môn của bị cáo nên phản ánh nội dung này trong bản án chưa đúng với nhiều cách viết khác nhau như “trình độ văn hóa Đại học”, “trình độ văn hóa Cử nhân xây dựng”; “trình độ văn hóa 10/12”; “trình độ văn hóa lớp 10”; “trình độ học vấn Lớp 10/12”; “trình độ văn hóa học vấn 11/12”... Học vấn là khái niệm chỉ mức độ của việc học mà một người đã đạt tới, bao gồm nhiều cấp bậc như tiểu học, trung học, đại học… Ở mỗi cấp bậc như thế, ta có thể gọi là một trình độ. Do đó, có thể hiểu rằng trình độ học vấn chính là trình độ hiểu biết do học hỏi mà có. Song, hiện nay, trình độ văn hóa đang được đánh đồng là trình độ giáo dục phổ thông mà theo đó, trình độ văn hóa được dùng để chỉ cấp độ học tập theo các bậc học phổ thông được thể hiện trong mẫu Sơ yếu lý lịch. Tuy nhiên, việc hiểu trình độ văn hóa như trên là chưa đúng, bởi theo nghĩa rộng, trình độ văn hóa còn bao gồm cả trình độ phát triển vật chất và tinh thần của một cá nhân trong đó chứa đựng cả cách sống, lối sống. Còn trình độ giáo dục phổ thông là trình độ của mỗi người tiếp thu kiến thức trong quá trình học tập ở các bậc học phổ thông tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông. Người có trình độ học vấn cao chưa hẳn đã có trình độ văn hóa cao, thậm chí vẫn bị coi là thiếu văn hóa. Có người trình độ học vấn thấp, nhưng ứng xử xã hội chuẩn mực vẫn là người có văn hóa. Do đó, mục “trình độ văn hóa học vấn” trong mẫu bản án hiện nay theo chúng tôi nên thay thế bằng cụm từ “trình độ học vấn” cho phù hợp. + Về “Tiền án, tiền sự; nhân thân” Ghi nội dung này trong bản án chưa đúng, có bản án chỉ ghi tiền án, tiền sự mà không ghi nhân thân của bị cáo; có bản án ghi tiền án của bị cáo không đúng từ ngữ pháp lý như “Tiền án Bản án số 30/STHS ngày 19/5/2004 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh TQ xử phạt 06 tháng tù treo, thử thách 12 tháng về tội Trộm cắp tài sản; Tiền sự, nhân thân Không”. Có bản án ghi “Tiền án, tiền sự, nhân thân Không”. Đối với một số biện pháp xử lý hành chính, nhiều bản án chỉ ghi ở mục “Nhân thân” “Bị cáo bị áp dụng biện pháp giáo dục tại phường hoặc bị đưa vào trường giáo dưỡng, đi cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số... ngày... tháng... năm... của ....” mà không ghi cụ thể thời gian bị áp dụng các biện pháp này từ khi nào đến khi nào do đó không có cơ sở để nhận biết là tính đến ngày phạm tội thì bị cáo đã được coi là chưa bị xử lý hành chính hay không. Có bản án còn ghi cả những lần bị cáo bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính nhưng theo Luật Xử lý vi phạm hành chính thì hành vi đó đã được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính vào mục “tiền sự”. - Về những thành phần tham gia tố tụng tại phiên tòa Có bản án xác định thừa hoặc sai tư cách tố tụng như Bản án xác định một người tham gia phiên tòa với tư cách tố tụng là “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án” nhưng họ không yêu cầu Tòa án giải quyết nội dung gì, quá trình xét xử Tòa án cũng không xem xét, giải quyết gì đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Trường hợp này hay xảy ra với người mua tài sản ngay tình và tài sản đó do bị cáo trộm cắp được và bán cho họ hoặc trường hợp trước khi mở phiên tòa, đại diện gia đình bị cáo đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường xong cho bị hại. Nhiều bản án, khi ghi lý lịch của bị hại là tổ chức, cơ quan, đơn vị nhưng không xác định rõ địa chỉ của tổ chức, cơ quan, đơn vị đó. Có trường hợp người làm chứng đã chết sau khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng trong bản án lại xác định “Người làm chứng Nguyễn Văn A; vắng mặt có lý do”... Phần “Nội dung vụ án” Phần này phải thể hiện đầy đủ các nội dung theo quy định tại điểm b, điểm c khoản 2 Điều 260 BLTTHS. Ở phần này, câu văn được HĐXX sử dụng “là loại câu chủ động, thể hiện rõ hành động và ý chí của các đối tượng được đề cập trong bản án” [2]. Qua nghiên cứu chúng tôi thấy ở phần này còn một số tồn tại sau - Một số bản án chép lại gần như nguyên văn nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát về diễn biến hành vi phạm tội trong đó thống kê lại đặc điểm toàn bộ vật chứng của vụ án đã thu giữ và xử lý nên làm bản án dài và trùng lặp. - Ghi quan điểm của Kiểm sát viên KSV, của người tham gia tố tụng tại phiên tòa trong giai đoạn tranh luận chưa đầy đủ nên chưa phản ánh rõ nét hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, thể hiện ở việc + Có bản án phản ánh đầy đủ đề nghị của KSV về các điểm, khoản, điều của BLHS, BLTTHS để giải quyết phần hình sự nhưng phần các biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng thì KSV lại không nêu các điều luật viện dẫn để giải quyết. + Có bản án không nêu ý kiến của người làm chứng hoặc nêu không đầy đủ quan điểm của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc đại diện hợp pháp của bị hại mặc dù các chứng cứ này trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa đều có ý nghĩa với việc giải quyết vụ án. Cá biệt có bản án, mặc dù người làm chứng, bị hại, đương sự có mặt và tranh tụng tại phiên tòa nhưng trong bản án lại ghi “Trong quá trình điều tra, người làm chứng khai nhận... ”. Có bản án, mặc dù những lời khai của người làm chứng rất quan trọng và những lời khai này đều được các bên đưa ra khi tranh tụng tại tòa, nhưng vì người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nên HĐXX cũng không ghi vào trong bản án. + Có bản án chỉ nêu quan điểm đề nghị của KSV và lời nói sau cùng của bị cáo mà không phản ánh quan điểm bào chữa của bị cáo mặc dù kiểm tra biên bản phiên tòa cho thấy bị cáo có bào chữa và vì vậy nên bản án cũng không ghi được những ý kiến đối đáp của KSV với bị cáo, người bào chữa cho bị cáo. Có bản án, mặc dù HĐXX biết KSV nêu nội dung luận tội đúng nhưng đề nghị viện dẫn điều luật sai song tại tòa, HĐXX không hỏi lại để KSV đính chính mà vẫn ghi vào trong bản án các điều luật nhầm lẫn đó nhưng ở phần “Nhận định của Tòa án” thì HĐXX không lập luận gì về nội dung này. + Có bản án khi đại diện VKS tại phiên tòa thay đổi tội danh truy tố bị cáo nhưng bản án cũng không nêu lý do gì và ý kiến của bị cáo ra sao trước sự thay đổi đó. Ví dụ VKS trước đó truy tố bị cáo tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 93 BLHS; bản án viết “Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, vị đại diện VKSND tỉnh HT giữ quyền công tố tại phiên tòa đã thay đổi tội danh của cáo trạng đã truy tố, phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân, tâm lý bị cáo trong quá trình phạm tội, từ đó đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H khoảng từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù về tội “Vô ý làm chết người” theo khoản 1 Điều 98 BLHS. Miễn xét về phần dân sự....”. - Việc lựa chọn chứng cứ chứng minh để nêu trong bản án còn thiếu khoa học Có bản án viện dẫn chứng cứ quá dài, có những chứng cứ mà nội dung không liên quan gì đến việc giải quyết vụ án. Có bản án lại ghi cả những hành vi mà Viện kiểm sát không truy tố vào phần này. Cá biệt có bản án còn ghi nhầm quan điểm giải quyết của HĐXX mà lẽ ra phải được đưa vào phần “Nhận định của Tòa án” vào phần “Nội dung vụ án”. - Sử dụng từ ngữ pháp lý chưa phù hợp. Ví dụ “Quan điểm của Vị đại diện VKSND..... Sau khi phân tích....., Vị cho rằng.......; Vị Kiểm sát viên quyết định giữ nguyên nội dung bản cáo trạng....; Vị còn đề nghị HĐXX... ” . Sử dụng từ ngữ chưa thống nhất như “ông kiểm sát viên”;“vị đại diện VKS”;“ông công tố viên”;“đại diện VKS” hoặc “đồng bọn” trong vụ án đồng phạm hay “tịch thu, sung quỹ nhà nước” phải là “tịch thu sung vào ngân sách nhà nước”... Phần “Nhận định của Tòa án” Phần này phải phản ánh đầy đủ các nội dung theo quy định tại điểm d, điểm đ, điểm e khoản 2 Điều 260 BLTTHS. Tuy nhiên qua nghiên cứu cho thấy - Việc phân định các đoạn văn trong dấu [ ] nhiều bản án chưa hợp lý thể hiện ở chỗ Thông thường, HĐXX nhận định đánh giá về hành vi, quyết định tố tụng của người và cơ quan tiến hành tố tụng trước khi giải quyết các vấn đề của vụ án; nhưng có bản án thì HĐXX lại đặt mục này ở cuối cùng của phần “Nhận định của Tòa án” là chưa phù hợp bởi việc xem xét tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của người và cơ quan tiến hành tố tụng là tiền đề trước khi xem xét, giải quyết các nội dung khác của vụ án. Mặt khác, có bản án chia quá nhỏ các nội dung trong dấu [ ] mà không phân định theo mỗi tình tiết hoặc các nhóm tình tiết của vụ án khiến bản án bị rối vì quá nhiều mục. Có bản án, HĐXX phân tích, đánh giá và giải quyết hết các nội dung của vụ án xong và ở mục cuối cùng, trước khi quyết định mới ghi “ [9] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng là phù hợp nên HĐXX chấp nhận”. Nếu viết bản án như vậy thì không sai; tuy nhiên chưa thể hiện rõ tính tranh tụng tại phiên tòa. Lẽ ra, các ý kiến của KSV, của người tham gia tố tụng đề nghị tại phiên tòa phải được HĐXX khẳng định chấp nhận hoặc không chấp nhận vì lý do gì tại mỗi mục dấu [ ] mà HĐXX giải quyết trong phần này của bản án, như vậy mới đảm bảo tính lô gic, tức là thể hiện tính tranh tụng rõ nét trong việc giải quyết các nội dung vụ án của HĐXX. Ví dụ “... từ sự phân tích nêu trên, HĐXX có cơ sở khách quan và căn cứ pháp lý để kết luận Bị cáo Nguyễn Văn T đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS năm 2015. Do vậy, ý kiến của ông KSV tại phiên tòa có cơ sở chấp nhận; ý kiến của người bào chữa cho bị cáo về việc bị cáo phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là không có cơ sở chấp nhận”. Thực tế, nhiều bản án chưa phản ánh đầy đủ nội dung tranh tụng tại phiên tòa và thường thuộc hai trường hợp là 1 quá trình tranh tụng, các bên có tranh luận nội dung đó nhưng không được HĐXX phản ánh vào bản án và 2 quá trình tranh tụng, HĐXX quên không đưa vấn đề đó ra cho các bên tranh luận nên bỏ sót không đưa vào bản án. - Một số bản án chưa nêu được mục đích, động cơ phạm tội, nguyên nhân và điều kiện phạm tội hoặc điều kiện sinh sống và giáo dục của bị cáo, nhất là trong trường hợp bị cáo là người dưới 18 tuổi. Một số bản án xét xử các vụ án đồng phạm nhưng HĐXX không phân tích làm rõ hình thức đồng phạm, không xác định rõ vai trò của từng bị cáo trong vụ án nhưng trong quyết định của bản án lại áp dụng các quy định về đồng phạm Điều 17 và Điều 58 BLHS với các bị cáo. - Khác với phần “Nội dung vụ án” ở trên; ở phần này, câu văn được HĐXX sử dụng là “loại câu bị động tức là câu có chủ ngữ chỉ người, vật được hoạt động của người, vật khác hướng vào, chủ yếu nhằm chỉ đối tượng của hoạt động” [3]. Tuy nhiên, việc sử dụng từ ngữ trong một số bản án còn chưa phù hợp, thiếu tính pháp lý thể hiện ở việc Nhiều bản án hay sử dụng từ “Tại phiên tòa hôm nay” trong khi vụ án từ khi khai mạc đến khi tuyên án phải kéo dài ngày; vậy “hôm nay” xác định trong bản án là hôm nào? Sử dụng từ “tang vật” trong khi BLTTHS xác định đó là “vật chứng”. Bản án đã được HĐXX nghị án xong và tuyên án nhưng trong phần này bản án vẫn nêu “Khi quyết định hình phạt, HĐXX sẽ cân nhắc, xem xét tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo đủ để giáo dục cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung” hoặc “về nhân thân các bị cáo là người có nhân thân tốt thể hiện các bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự và người lao động”. Có bản án nêu những nhận xét, đánh giá mang tính cảm quan như “từ những đánh giá trên, nghĩ cần thiết phải cách ly bị cáo Nguyễn Văn T ra khỏi đời sống xã hội....”. Hoặc “về nhân thân ba bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; về tình tiết giảm nhẹ 03 bị cáo chưa có tiền án, tiền sự... ”. - Bản án viết chưa đúng mẫu; bản án viết cùng một nội dung nhưng chưa thống nhất với nhau giữa ngay trong một Tòa án hoặc giữa các Tòa án với nhau. Ví dụ Mẫu bản án của TANDTC hướng dẫn các nội dung cần phải có trong bản án nhưng có bản án lại chép nguyên văn mẫu này vào bản án và đánh giá của HĐXX lại mập mờ, không rõ như “ [1] Phân tích tính hợp pháp của các hành vi tố tụng Về hành vi, quyết định tố tụng ... của ... trong quá trình ... đã cơ bản thực hiện đúng thẩm quyền ....; [2] Phân tích chứng cứ buộc tội và gỡ tội đối với các bị cáo...”. Nhiều bản án sau khi phân tích hành vi khách quan của bị cáo thì HĐXX đã trích dẫn cả điều luật của BLHS về tội danh mà bị cáo đã phạm vào bản án nhưng nhiều bản án lại không trích dẫn điều luật BLHS bị cáo bị xét xử vào bản án. Có bản án nêu cả quyền kháng cáo của người tham gia tố tụng thành một mục trong phần “Nhận định của Tòa án” nhưng có bản án thì không có mục này. - Về biện pháp tư pháp Nhiều bản án áp dụng pháp luật thiếu chính xác như thay vì áp dụng khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585, khoản 1 Điều 589 BLDS thì lại ghi áp dụng Điều 584, Điều 585, Điều 589 BLDS. Có trường hợp được HĐXX xác định tư cách tham gia tố tụng trong bản án là “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án” nhưng phần này HĐXX lại không nêu họ có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gì đến vụ án; thực tế thì họ không có yêu cầu, đề nghị gì nhưng phần “Quyết định” của bản án lại tuyên họ có quyền kháng cáo bản án là thiếu lô gic và chưa chính xác. Cá biệt, một số vụ án “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” chưa xác định đầy đủ tư cách của chủ sở hữu phương tiện là bị đơn dân sự nên không buộc bị đơn bồi thường thiệt hại. - Phần ghi quan điểm của HĐXX về xử lý vật chứng Nhiều bản án chưa nêu được căn cứ pháp luật để HĐXX xử lý các vật chứng của vụ án mà chỉ ghi chung chung là “... đối với các vật chứng....là những vật không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy” nhưng trong phần quyết định của bản án lại tuyên “...áp dụng Điều 47 BLHS, căn cứ Điều 106 BLTTHS để tịch thu tiêu hủy...” là thiếu lô gic và chưa đúng các điểm, khoản của điều luật được áp dụng. - Mục [Về án phí], có bản án viện dẫn khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS; có bản án lại viện dẫn khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14; có bản án viện dẫn khoản khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Luật Phí và lệ phí số 97/2015/QH13 cùng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 nhưng có bản án lại chỉ nêu “Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật”. - Về việc giải quyết các biện pháp ngăn chặn Trước khi xét xử bị cáo phạm tội “Đánh bạc”, bị cáo bị Tòa án ra lệnh “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; khi xét xử, bị cáo bị phạt tiền; HĐXX nhận định trong bản án và quyết định trong phần quyết định của bản án là “hủy quyết định cấm đi khỏi nơi cư trú trước đó” với bị cáo nhưng có bản án cũng vẫn xét xử tội đánh bạc như vậy thì HĐXX lại không quyết định hủy biện pháp ngăn chặn này. Tương tự như vậy, bị cáo bị xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” thì có HĐXX lại nhận định trong bản án là “tiếp tục áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú với bị cáo cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật” chứ không đưa vào phần quyết định nội dung này, có HĐXX lại không đề cập gì đến nội dung này trong bản án. Phần quyết định Phần này phải phản ánh đầy đủ nội dung theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 260 BLTTHS. Mẫu viết bản án tại Nghị quyết số 05/2017/NQ- HĐTP 19/9/2017 không hướng dẫn HĐXX phải ghi áp dụng “điểm g khoản 2 Điều 260 BLTTHS” vào bản án. Tuy nhiên, nghiên cứu các “Quyết định” của những bản án đã được công bố cho thấy có rất nhiều cách tuyên với nội dung và hình thức khác nhau và không thống nhất về hình thức và nội dung như - Nhiều bản án sử dụng từ “Căn cứ” theo đúng mẫu bản án của TANDTC, nhiều bản án lại sử dụng từ “Áp dụng”. - Cách tuyên án cũng khác nhau Nhiều bản án tuyên căn cứ các điều luật về tội danh; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, án phí sau đó mới tuyên bố bị cáo phạm tội. Nhiều bản án lại tuyên bố bị cáo phạm tội gì sau đó mới tuyên áp dụng điều luật ở từng mục hình sự, hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, án phí .... Quyết định về án phí Tương tự như phần “Nhận định của Tòa án” đã nêu trên, có bản án viện dẫn khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14; có bản án chỉ viện dẫn khoản 2 Điều 136 BLTTHS; có bản án lại viện dẫn cả khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14...như Có bản án tuyên “Vì các lẽ trên, căn cứ điểm g khoản 2 Điều 260 BLTTHS; Quyết định 1. Về hình sự Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội Giết người; áp dụng khoản 1 Điều 123 điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo.....”. Có bản án lại tuyên “Vì các lẽ trên, Quyết định 1. Tuyên bố bị cáo Lê Thái Ng phạm tội Đánh bạc; áp dụng khoản 1 Điều 321... BLHS xử phạt bị cáo Lê Thái Ng đồng”. Bản án khác tuyên “ Vì các lẽ trên, Quyết định [1] Căn cứ vào khoản 1 Điều 321 BLHS; tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội đánh bạc; áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51......BLHS xử phạ t...”. Có bản án lại tuyên tất cả các điều luật được áp dụng ngay sau từ “Quyết định” như “Vì các lẽ trên, Quyết định Căn cứ khoản 1, khoản 5 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 55; khoản 2 Điều 56 BLHS. Căn cứ Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14... Tuyên bố bị cáo Nguyễn Huy D phạm tội ...; phạt bổ sung đ. Về án phí Bị cáo Nguyễn Huy D phải nộp đồng án phí hình sự sơ thẩm ...”. Có bản án lại tuyên trong “Quyết định” cả các điều luật của BLTTHS về thẩm quyền của Tòa án như “Vì các lẽ trên, Quyết định Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 268, Điều 269 và Điều 299 BLTTHS; tuyên bố bị cáo Luyện Văn Đ phạm tội giết người; căn cứ khoản 2 Điều 123; điểm ... BLHS xử phạt bị cáo ....”. Có bản án do bị cáo và bị hại đã thỏa thuận xong phần bồi thường trước khi xét xử thì HĐXX lại ghi “Vì các lẽ trên, Quyết định 1. Về tội danh và hình phạt... 2. Về trách nhiệm dân sự Miễn xét”. - Về quyết định của Hội đồng xét xử với việc tạm giam bị cáo sau khi tuyên án để đảm bảo thi hành án cũng không thống nhất Có bản án ghi trong phần Quyết định “Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo cho việc thi hành án có Quyết định tạm giam riêng của Hội đồng xét xử”. Có bản án lại tuyên “Áp dụng khoản 1 Điều 329 BLTTHS tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án”; nhiều bản án không tuyên các nội dung này trong quyết định của bản án mà HĐXX thảo luận, quyết định nội dung này và được ghi trong biên bản nghị án sau đó HĐXX công bố quyết định này sau khi tuyên án. - Đối với những bản án tuyên bị cáo còn phải có nghĩa vụ thi hành án dân sự quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí ... thì theo hướng dẫn của Công văn số 99/TANDTC-KHXX ngày 01/7/2009 về thi hành Luật Thi hành án hình sự, tại phần cuối cùng Quyết định của bản án phải ghi “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”. Tuy nhiên nhiều bản án lại không ghi nội dung này. Ngoài ra, một số bản án do chưa cập nhật nội dung Luật Thi hành án hình sự 2019 đã có hiệu lực thi hành nên trong bản án vẫn tuyên “trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự” Điều 69 là của Luật Thi hành án hình sự năm 2010 đã hết hiệu lực thi hành là không chính xác. - Nhiều quyết định của bản án trong mục xử lý vật chứng lại ghi lại đặc điểm của toàn bộ các vật chứng trong vụ án là không cần thiết hoặc tuyên tịch thu vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, tài sản do phạm tội mà có nhưng lại không xác định những tài sản, vật chứng đó là của ai. Có trường hợp không áp dụng Điều 128 BLTTHS để kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án mà chỉ tuyên “tạm giữ xe mô tô ... để đảm bảo thi hành án”. Với những hiểu biết còn hạn chế của mình; chúng tôi xin nêu lên một số nội dung còn tồn tại hoặc chưa thống nhất trong hình thức và nội dung viết bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án các cấp để cấp có thẩm quyền hướng dẫn và thống nhất trong toàn ngành nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng của công tác xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nói chung cũng như chất lượng viết bản án nói riêng./. Chủ toạ phiên toà vụ gian lận điểm ở Hà Giang công bố bản án - Ảnh Nguyễn Hưng/ CAND [1] Điều 132 BLTTHS [2] Một số vấn đề về bản án và văn phong bản án- Lê Văn Minh, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao [3] Một số vấn đề về bản án và văn phong bản án- Lê Văn Minh, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
1. Các dạng vi phạm dẫn đến vụ án hình sự bị hủy Qua thực tiễn xét xử, cùng như tham khảo các báo cáo của Tòa án, Viện kiểm sát... chúng tôi thấy phổ biến một số dạng vi phạm sau đây Vi phạm nghiêm trọng các qui định của BLTTHS a. Vi phạm về thẩm quyền giải quyết vụ án Điều 110 BLTTHS Vi phạm này thể hiện ở hai dạng Cơ quan tiến hành tố tụng xác định không đúng nơi xảy ra hành vi phạm tội dẫn đến điều tra, truy tố, xét xử sai thẩm quyền lãnh thổ, hoặc vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp tỉnh, nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng cấp huyện thụ lý giải quyết. b. Vi phạm trong việc hỏi cung, lấy lời khai, đối chất, nhận dạng Điều 131, 132, 135, 137, 138, 139 BLTTHS Những vi phạm này được thể hiện cụ thể như không đảm bảo sự tham gia khách quan của người bào chữa, người giám hộ theo quy định của BLTTHS, có những trường hợp hình thức biên bản thể hiện đúng quy định tố tụng nhưng thực chất thì các biên bản ghi lời khai, hỏi cung không có người giám hộ hoặc Luật sư tham gia mà sau đó họ mới ký vào để hợp pháp hóa các biên bản. Một số trường hợp lập biên bản hỏi cung, ghi lời khai không thể hiện tính khách quan do biên bản được soạn thảo trên máy vi tính với những nội dung giống nhau đến từng dấu chấm, dấu phẩy; các biên bản viết tay thì thể hiện sao chép lại nội dung lời khai của người bị hại, nhân chứng, vi phạm này thường xảy ra ở các vụ án có số lượng đông bị hại và nhân chứng và lời khai của họ thường cùng một nội dung. Biên bản ghi lời khai không gạch chéo phần trống, hoặc không thể hiện rõ việc bị can đã được nghe lại hoặc được đọc lại xác nhận nội dung biên bản. Đặc biệt các biên bản ghi lời khai nhân chứng thường không thể hiện rõ nội dung vì sao biết được tình tiết đó mà khai ra theo quy định của Điều 67 khoản 2 BLTTHS do vậy khi nhân chứng có sự thay đổi lời khai thì không có cơ sở để đánh giá lời khai nào đúng, lời khai nào không đúng. Cũng không ít biên bản hỏi cung bị can, biên bản ghi lời khai bị hại, nhân chứng nhưng không có phiên dịch trong những trường hợp họ là người dân tộc. Lời khai của bị can, bị cáo, bị hại, nhân chứng, người liên quan mâu thuẫn nhưng không đối chất làm rõ dẫn đến thiếu căn cứ buộc tội, phải hủy án. Theo quy định tại Điều 138 BLTTHS “Trong trường hợp có sự mâu thuẫn trong lời khai giữa hai hay nhiều người thì ĐTV tiến hành đối chất”, nhưng qua thực tế cho thấy nhiều vụ án Tòa án tuyên hủy để điều tra lại chính là do vi phạm các quy định tố tụng về nội dung. c. Vi phạm tố tụng trong việc khám nghiệm hiện trường, thu giữ vật chứng, khám xét, thực nghiệm điều tra, giám định Điều 140, 150, 153, 155, 156 BLTTHS Vi phạm trong việc khám nghiệm hiện trường, thu giữ vật chứng xảy ra nhiều và thể hiện ở việc lập biên bản khám nghiệm hiện trường không đúng quy định, thu giữ vật chứng nhưng không lập biên bản niêm phong. Vi phạm trong việc khám xét thể hiện ở việc không tiến hành khám xét nơi cất giấu tang vật. Trong việc thực nghiệm điều tra, vi phạm thể hiện ở việc không tổ chức thực nghiệm tại hiện trường nơi xảy ra vụ án mà thực nghiệm ở nơi khác. Trong giám định hoặc định giá tài sản cũng có nhiều vi phạm như không trưng cầu giám định hoặc giám định, định giá không đúng quy định; các loại vi phạm này thường xảy ra trong các loại tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe; xâm phạm sở hữu; tội phạm về quản lý kinh tế; xâm phạm về trật tự an toàn giao thông. d. Việc điều tra, thu thập chứng cứ chưa đầy đủ để làm căn cứ kết luận hành vi phạm tội, người phạm tội và các tình tiết khách quan của vụ án Điều 63 BLTTHS Dạng vi phạm thể hiện cụ thể là chưa làm rõ hậu quả của tội phạm, hoặc chưa làm rõ tuổi của bị cáo hoặc người bị hại trong các vụ án mà bị cáo, bị hại còn ở tuổi chưa thành niên, đặc biệt là trong các vụ án “Hiếp dâm trẻ em”, bị hại, bị cáo được sinh ra ở khu vực phía Nam thường khai sinh quá hạn và không đúng với thời điểm thực tế bị cáo, bị hại được sinh ra. Nhưng khi tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ có mâu thuẫn thì các cơ quan tiến hành tố tụng không giám định độ tuổi để làm căn cứ khởi tố, truy tố cho chính xác mà vẫn kết luận điều tra truy tố, trong khi việc xác định tuổi của bị cáo, bị hại có ý nghĩa rất quan trọng trong xác định tội danh và quyết định đường lối xử lý. Vi phạm trong xác định lý lịch tư pháp của người thực hiện hành vi phạm tội không chính xác xảy ra nhiều, dẫn đến việc khởi tố bị can, kết luận điều tra, truy tố và kết án không đúng tên người phạm tội. đ. Vi phạm về giới hạn xét xử, việc xét hỏi, tranh luận, nghị án, ghi biên bản phiên tòa và phạm vi xét xử Điều 196, 200, 207, 222, 238 BLTTHS Vi phạm về giới hạn xét xử thường gặp là VKS truy tố một tội danh nhưng Tòa án xử bị cáo về nhiều tội danh khác nhau. Vi phạm về việc xét hỏi và tranh luận thường gặp là không công bố lời khai trong quá trình xét hỏi theo yêu cầu của VKS; tranh luận và xét hỏi đan xen nhau, không đúng quy định tại Điều 207 BLTTHS. Vi phạm về việc nghị án và ghi biên bản phiên tòa thường gặp là nghị án một nội dung nhưng tuyên án một nội dung khác, nghị án tội này nhưng tuyên trong bản án tội khác như nghị án tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” nhưng tuyên án tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, biên bản nghị án không ghi điều luật hay khung hình phạt áp dụng, thậm chí có trường hợp không ghi cả mức hình phạt trong biên bản nghị án, nhiều trường hợp tên và số lượng thành viên HĐXX trong biên bản nghị án khác với tên và số lượng thành viên HĐXX trong bản án và biên bản phiên tòa khác nhau; có sự mâu thuẫn giữa biên bản phiên tòa và biên bản nghị án về số lượng và thành phần những người tiến hành tố tụng; những vi phạm nghiêm trọng này của Tòa án nhưng VKS các địa phương cũng không phát hiện kịp thời để kiến nghị, kháng nghị, những vi phạm đó làm ảnh hưởng rất lớn tới quyền của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác nên cấp phúc thẩm và giám đốc thẩm tuyên hủy án để điều tra lại, xét xử lại. Vi phạm về phạm vi xét xử phúc thẩm là trường hợp bị cáo rút toàn bộ kháng cáo tại phiên tòa nhưng không đình chỉ xét xử phúc thẩm. e. Xác định sai tư cách người tham gia tố tụng hoặc không đưa đầy đủ người tham gia tố tụng vào quá trình giải quyết vụ án Điều 51, 52, 53, 54, 55 BLTTHS Việc xác định sai tư cách tham gia tố tụng thường thể hiện như nhầm lẫn giữa nguyên đơn dân sự và bị hại; nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự với người có quyền, nghĩa vụ liên quan; nhầm lẫn giữa bị hại với người có quyền, nghĩa vụ liên quan. Nhiều vụ án không đưa đầy đủ người tham gia tố tụng vào quá trình giải quyết vụ án như không đưa chủ phương tiện, Công ty bảo hiểm tham gia tố tụng trong các vụ án giao thông. Việc xác định sai tư cách người tham gia tố tụng hoặc không đưa đầy đủ người tham gia tố tụng vào quá trình giải quyết vụ án, làm ảnh hưởng rất lớn tới việc giải quyết khách quan toàn diện vụ án, cũng như ảnh hưởng tới quyền nghĩa vụ của các đương sự, ví dụ khi xác định sai người bị hại thành người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan làm ảnh hưởng tới quyền kháng cáo về hình phạt của họ đối với bị cáo và làm thiệt hại cho họ khi quyết định về phần bồi thường. Vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng các quy định của BLHS a. Truy tố, xét xử không đúng tội danh Những vi phạm này thường xảy ra ở những tội phạm có dấu hiệu đặc trưng gần giống nhau như giết người với cố ý gây thương tích, giết người trong trạng thái bị kích động mạnh với giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng với giết người tại khoản 2 Điều 93 BLHS... hoặc các tội phạm về kinh tế như tội lừa đảo và tội lạm dụng tín nhiệm, hoặc hành vi chỉ phạm vào một tội nhưng truy tố, xét xử về nhiều tội danh khác nhau. b. Bỏ lọt tội phạm và người phạm tội Đây là vi phạm xảy ra khá nhiều trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, được thể hiện ở việc các cơ quan tố tụng đánh giá chứng cứ không đúng, không đầy đủ, toàn diện, dẫn đến bỏ lọt hành vi phạm tội, bỏ lọt người phạm tội, nhất là bỏ lọt những hành vi đi liền với nhau cấu thành nhiều tội phạm khác nhau nhưng chỉ truy tố, xét xử một tội hoặc nhiều người đồng phạm cùng tham gia thực hiện tội phạm nhưng chỉ xử lý người chủ mưu, người thực hành, bỏ lọt các đồng phạm khác, như trong các vụ án giết người có đông đồng phạm tham gia, thường chỉ xử lý kẻ chủ mưu, thực hành còn những đồng phạm khác có vai trò giúp sức về tinh thần thì xử lý hành chính hoặc xử lý tội gây rối trật tự công cộng... Một số tội như “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” để “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” có nơi xử hai tội, có nơi thu hút về một tội, đây cũng là những nội dung các VKS địa phương vướng mắc thỉnh thị nhưng chưa được quan tâm hướng dẫn để có nhận thức và áp dụng thống nhất. c. Xác định sai khung hình phạt, áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cho hưởng án treo, quyết định hình phạt, áp dụng biện pháp tư pháp không đúng Việc xác định sai khung hình phạt thường gặp là bị cáo phạm vào khung tăng nặng nhưng truy tố hoặc xét xử ở khung nhẹ hơn. Áp dụng tình tiết tăng nặng giảm nhẹ không đúng được thể hiện như bỏ sót các tình tiết tăng nặng, cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ không đúng qui định, áp dụng Điều 47 BLHS không đúng, đây cũng là những vi phạm xảy ra khá phổ biến trong xét xử các vụ án hình sự nói chung, các vụ án bị tuyên hủy nói riêng. Cho hưởng án treo không đúng qui định cũng là những vi phạm xảy ra nhiều, vi phạm này thường bắt nguồn từ việc nhận thức và áp dụng không đúng các qui định của pháp luật cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành, như nhận thức áp dụng sai các tình tiết định khung, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự… từ đó cho hưởng án treo cả những đối tượng chủ mưu, phạm nhiều tội cùng lúc hoặc phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, các đối tượng phạm tội có tính chất côn đồ, hoặc cho hưởng án treo đối với các bị cáo phạm các tội dư luận lên án, vi phạm nghiêm trọng Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 60 BLHS về án treo. Sử dụng tiền án của bị cáo để xác định là tình tiết định tội, đồng thời lại tiếp tục sử dụng tiền án đó để tính tái phạm đối với bị cáo, vi phạm nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 49 BLHS. Các vi phạm khác trong việc quyết định hình phạt như không trừ thời gian bắt buộc chữa bệnh vào thời hạn chấp hành hình phạt tù vi phạm Điều 44 BLHS. Trường hợp xử phạt tù có thời hạn nhưng thấp hơn mức thấp nhất của loại hình phạt tù có thời hạn. Áp dụng biện pháp tư pháp không đúng thường liên quan đến việc xử lý vật chứng. 2. Bất cập, hạn chế và kiến nghị hoàn thiện. Về căn cứ hủy bản án hình sự sơ thẩm để xét xử lại Trường hợp “Có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 358 BLTTHS là căn cứ pháp lý để Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại. Thế nhưng, mặc dù tại điểm o khoản 1 Điều 4 BLTTHS đã giải thích khái niệm Có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử nhưng đây là giải thích chung không có quy định giải thích cụ thể các sai sót bị xem là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và cũng chưa đề ra tiêu chí phân biệt ranh giới giữa vi phạm nghiêm trọng với vi phạm chưa tới mức nghiêm trọng. Chính vì vậy, việc hiểu cụ thể về vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng của Tòa án cấp sơ thẩm còn có những ý kiến khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử là việc Tòa án cấp sơ thẩm đã có những sai phạm về mặt thủ tục tố tụng dẫn đến việc giải quyết xét xử vụ án không tuân thủ những quy định của pháp luật tố tụng hành chính làm ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của đương sự vụ án. Quan điểm thứ hai cho rằng “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử được hiểu là những vi phạm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật của vụ án không chính xác hoặc xâm phạm đến quyền tố tụng của những người tham gia tố tụng”. Như vậy, việc BLTTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành không giải thích rõ cụm từ “Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong xét xử” đã làm cho việc hiểu và áp dụng pháp luật gặp khó khăn, lúng túng, thiếu thống nhất giữa các địa phương, các cấp Tòa, ảnh hướng đến chất lượng trong phán quyết của bản án phúc thẩm. Về căn cứ hủy bản án hình sự sơ thẩm để điều tra lại Đối với trường hợp“Việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được” tại điểm b khoản 1 Điều 358 BLTTHS. Chứng cứ, tài liệu được thu thập trong quá trình điều tra hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Luật định mà Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án. Trong BLTTHS, chứng cứ, tài liệu được xem là căn cứ quan trọng không thể thiếu để Tòa án giải quyết vụ án khách quan, chính xác và đúng pháp luật. Về nguyên tắc, các chứng cứ, tài liệu được sử dụng phải đáp ứng hết các tiêu chuẩn khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác. Khi vụ án được xét xử lại theo trình tự phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm đã phát hiện sự tồn tại của các chứng cứ, tài liệu mà Tòa án cấp phúc thẩm không thể bổ sung ngay được thì Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ phải hủy bản án sơ thẩm. Như vậy trong căn cứ này, chúng ta phải làm rõ nội dung thế nào là việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được. Hiện nay, BLTTHS chưa có quy định nào nhằm xác định việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được còn nhiều quan điểm và cách giải quyết khác nhau, cụ thể Một là, nếu các chứng cứ đã tồn tại trong giai đoạn giải quyết sơ thẩm vụ án nhưng nó không xuất hiện vì do một trong các thành phần tham gia tố tụng cố tình che giấu không làm cho chúng xuất hiện cơ quan điều tra không thu thập được mặc dù đã áp dụng các biện pháp theo quy định và Tòa án cấp sơ cũng không thể phát hiện ra đến giai đoạn phúc thẩm mới phát hiện ra vậy đây có phải là vấn đề điều tra cấp sơ thẩm không đầy đủ hay không? Hai là trường hợp ngược lại, trong giai đoạn sơ thẩm, các thành phần tham gia tố tụng đã xuất trình giao nộp các chứng cứ này nhưng Tòa án đã không sử dụng làm căn cứ để giải quyết vụ án đến khi giải quyết phúc thẩm Tòa án cấp phúc thẩm mới phát hiện ra và đây có thuộc trường hợp việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ không? Thiết nghĩ để hiểu chính xác, đầy đủ nhất tất cả các vấn đề trên là cần có sự hướng dẫn, giải thích. 3. Kiến nghị hoàn thiện Về căn cứ hủy bản án hình sự để xét xử lại Cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về trường hợp hủy án để xét xử lại “Có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 358 BLTTHS. Theo chúng tôi về khái niệm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố như sau Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩ là những vi phạm về mặt thủ tục tố tụng làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật, khách quan của vụ án không chính xác hoặc xâm phạm đến quyền, nghĩa vụ tố tụng của những người tham gia tố tụng. Để làm rõ được khái niệm này, chúng tôi nêu một số những vi phạm về thủ tục tố tụng của Tòa án cấp sơ thẩm bao gồm cả việc chuẩn bị xét xử và xét xử tại phiên tòa, cũng như một số việc cần phải tiến hành sau phiên tòa; những vi phạm cũng rất đa dạng song có thể nêu lên một số vi phạm thủ tục tố tụng thường xảy ra dẫn đến việc hủy bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại như sau Một là, vi phạm về thành phần hội đồng xét xử; Hai là xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng; Ba là không đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng khi giải quyết vụ án; Bốn là vắng mặt thành phần tham gia tố tụng quan trọng nhưng không có lý do chính đáng hoặc không thuộc trường hợp bất khả kháng hoặc các trường hợp vắng mặt theo luật định. Năm là không thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa khi thuộc trường hợp phải từ chối, thay đổi theo quy định của BLTTHS; Sáu là vi phạm về thủ tục tiến hành phiên tòa; Bảy là bỏ sót chưa giải quyết triệt để hết các yêu cầu của người tham gia tố tụng; Tám là việc nghị án không đúng. Bên cạnh đó, một điều cần lưu ý, không phải tất cả các vi phạm pháp luật BLTTHS của tòa án cấp sơ thẩm đều là căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại mà những vi phạm pháp luật đó phải đến mức nghiêm trọng, tức là làm cho việc giải quyết đó thiếu khách quan, toàn diện, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Còn những vi phạm pháp luật mà không làm ảnh hưởng nghiêm trọng thì không coi là căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án và chuyển hồ sơ cho tòa án cấp xét xử sơ thẩm xét xử lại. Kiến nghị hoàn thiện quy định về căn cứ hủy bản án hình sự để điều tra lại. Cần có văn bản hướng dẫn đối với trường hợp hủy án để điều tra lại“Việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được” tại điểm b khoản 1 Điều 358 BLTTHS, theo chúng tôi văn bản hướng dẫn như sau “Việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được cần phải thỏa mãn hai điều kiện sau đây 1/ Các vấn đề được Tòa án cấp phúc thẩm phát hiện ra đã tồn tại ngay từ đầu khi thụ lý xét xử sơ thẩm nhưng do Cơ quan điều tra và thành phần tham gia tố tụng không biết đến sự tồn tại của chúng hoặc chúng chưa xuất hiện. Việc không biết các vấn đề này có thể là do nguyên nhân khách quan làm cho Cơ quan điều tra không thu thập được và các thành phần tham gia tố tụng không biết song cũng có thể do một số người tham gia tố tụng biết nhưng cố ý che dấu không cung cấp làm cho Tòa án sơ thẩm không thể biết được. Ngược lại cũng có thể do người tham gia tố tụng hoặc những người tiến hành tố tụng biết mà che dấu, bỏ qua không xem xét chúng, làm chúng không được tồn tại trong hồ sơ vụ án. 2/ Về mặt thời gian, các vấn đề được xem là việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được được Tòa án cấp phúc thẩm xét xử phúc thẩm phát hiện ra sự tồn tại và sự quan trọng của chứng cứ đó nhằm giải quyết triệt để vụ án. Việc Tòa án phát hiện ra có tồn tại chứng cứ mới có thể do quá trình Tòa án nghiên cứu hồ sơ vụ án, xem xét và phát hiện ra sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm không đánh giá các chứng cứ đó hoặc cũng có thể là do người kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp phát hiện sự tồn tại các chứng cứ mới nhưng các chứng cứ này Tòa án không thể bổ sung, thu thập ngay tại phiên tòa được”. Từ các lập luận trên theo chúng tôi để giải thích việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được thì phải căn cứ vào hai tiêu chí nguyên nhân chúng tồn tại, xuất hiện và thời điểm chúng xuất hiện đã làm thay đổi nội dung vụ án và khi Tòa án phát hiện ra chúng mà không thể bổ sung ngay được thì Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ ra quyết định hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại. Tòa án nhân dân huyện Tiên Phước, Quảng Nam xét xử vụ án hình sự -Ảnh VP
bình luận bản án hình sự