🍻 Cù Lao Chín Chữ Ghi Lòng Con Ơi

Núi cao biển rộng mênh mông. Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi! Cái hay của bài ca dao này là cách nói so sánh cụ thể, nên thơ. Cái đẹp của bài ca dao là thể hiện sự ca ngợi, nói lên lòng biết ơn công cha nghĩa mẹ vô cùng to lớn. Ý nghĩa bài ca dao vô cùng sâu sắc nó dạy chúng Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi! Từ nội dung bài ca dao trên, em rút ra được bài học gì về ý thức, trách nhiệm của người con đối với cha mẹ mình? Bài 2: Bài thơ "Bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương đã thể hiện thân phận và phẩm chất của người phụ nữ trong xã hội Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi. Chín Chữ Cù Lao (1) Siêng năng cần mẫn nhọc nhằn. Công ơn Cha Mẹ vĩnh hằng cao sâu. Đẹp thay chín chữ Cù lao: Sinh ra đau đớn xiết bao nhiêu tình. Cúc thời nâng đở hy sinh. Phủ năng chăm sóc vỗ về vuốt ve. Súc thường bú mớm no nê. Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi. sợ con bị ăn hiếp. Chín chữ cù lao đã cụ thể hóa công ơn sinh dưỡng của cha mẹ dành cho con cái. 6. Tham khảo. bản thân mỗi chúng ta phải biết ghi nhớ công lao của cha mẹ; ngoan ngoãn, vâng lời, chăm ngoan học giỏi để cha mẹ vui lòng Theo em, "chín chữ cù lao" mà tác giả dân gian nhắc đến trong câu ca dao "Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!" là chín chữ nào? 4. Từ nội dung bài ca dao kết hợp với hiểu biết thực tế, em hãy viết một đoạn văn khoảng 7 - 9 câu nêu suy nghĩ về lòng hiếu thảo của con cháu Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. Công cha như núi ngất trời, Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông. Núi cao biển rộng mênh mông, Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi! Mẹ già ở chốn lều tranh, Đói no chẳng biết rách lành chẳng hay. Mẹ già đầu Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi! Nhấn mạnh về sự hi sinh, che chở của cha mẹ với con cái; Hình ảnh cù lao chính chữ/chín chữ cù lao: ẩn dụ về công đức sinh thành của cha mẹ nuôi con vất vả; Ghi lòng con ơi!: nhắc nhở con cái không quên cha mẹ. 3.2. Bài ca dao số 2: Cù lao 9 chín chữ ghi lòng con ơi Ngồi bên cạnh hóng hớt mẹ đang dạy các em cấp 2. Nghe đến đoạn: cù lao chín chữ ghi lòng con ơi". Thấy tò mò quá. Hóa ra giờ mình mới biết đến 9 chữ này. Hổ thẹn Đó là "cù lao chín chữ", đó là công ơn to lớn trời bể của mẹ cha, mà con cái phải biết "ghi lòng". Có hiếu thảo thì con cái mới biết "ghi lòng" công cha nghĩa mẹ. Hai tiếng "con ơi " thật thấm thía, vần thơ như thấm sâu, lắng sâu vào tâm hồn ta. xaS0pKq. Mục Lục [Ẩn] Chín chữ cù lao là gì? Ý nghĩa 9 chữ cù lao 1. Chữ Sinh 2. Chữ Cúc 3. Chữ Phủ 4. Chữ Súc 5. Chữ Trưởng 6. Chữ Dục 7. Chữ Cố 8. Chữ Phục 9. Chữ Phúc “Công cha mẹ sinh thành dưỡng dụcƠn đức này chín chữ cù lao”. “Chín chữ cù lao” là chín ân lớn thể hiện sự chăm sóc, hy sinh, tình yêu thương của cha mẹ dành cho con cái. Chín chữ cũng là chín bài học của mỗi người mà ai cũng phải khắc ghi trong lòng thật sâu sắc. Với mong muốn giúp thế hệ trẻ vun bồi tâm hiếu hạnh, giúp cho những người con hiểu được công ơn cha mẹ, Thầy Thích Trúc Thái Minh đã giảng giải về “Chín chữ cù lao”. Vậy chín chữ cù lao là gì? Kính mời quý Phật tử cùng đón đọc bài viết dưới đây! Chín chữ cù lao là gì? “Cù lao” là nhọc nhằn, khó khổ. Chín chữ cù lao thể hiện sự gian lao, vất vả khi sinh con, nuôi con, dạy dỗ con của cha, của mẹ. Chín chữ cù lao đó là Sinh - Cúc - Phủ - Súc - Trưởng - Dục - Cố - Phục - Phúc. Thầy Thích Trúc Thái Minh giảng Pháp cho các bạn trẻ về chủ đề “Chín chữ cù lao” ảnh minh họa Ý nghĩa 9 chữ cù lao Chín chữ cù lao tuy đơn giản nhưng lại mang những hàm ý sâu sắc và cao đẹp. 1. Chữ Sinh “Sinh” nghĩa là cha mẹ đã sinh ra chúng ta, cho chúng ta mầm sống, hình hài. Chúng ta trong thai mẹ suốt 9 tháng làm mẹ vất vả ăn, ngủ không được, phải kiêng khem giữ gìn đủ thứ, thân thể nặng nề, xồ xề xấu xí. Đến ngày sinh, mẹ lại chịu đau đớn vô cùng; thậm chí đã có những người mẹ mất mạng sau khi sinh con ra. Có những người mẹ sức khỏe yếu quá nên quyết định hy sinh thân mạng để con mình được sinh ra. Cho nên, người ta gọi “cửa sinh là cửa tử” - người mẹ sinh con giống như đi vào cửa tử. Vậy nên, khi sinh được con thì cha mẹ quý con như vàng, như ngọc nên dù lỡ con sinh ra với hình hài có xấu xí, tật nguyền, cha mẹ cũng không vì điều gì mà bỏ rơi con. Tình thương của cha mẹ đối với con lớn lao như vậy nên chúng ta đừng làm điều gì buông lung để tổn hại đến thân thể mình khiến cho cha mẹ đau khổ. Mẹ luôn là người che chở, bảo bọc cho con ảnh minh họa 2. Chữ Cúc Nghĩa là cung cúc, nâng đỡ. Từ khi mới lọt lòng cho đến khi lớn khôn nên người, biết bao nhiêu lần chúng ta được cha mẹ tay truyền tay bế ẵm nâng niu trong tình yêu thương của cha mẹ. Đối với cha mẹ, chúng ta là giọt máu của cha mẹ, còn quý hơn cả vàng ngọc. Dẫu con thế nào thì tình yêu thương của cha mẹ không bao giờ thay đổi. Con là sự sống, là tất cả của cha mẹ; vì vậy, nếu có ai mang cả tấn vàng để đổi lấy con thì chắc chắn, cha mẹ cũng không đổi. Dù cha mẹ có phải ăn rau, ăn mắm thì cha mẹ cũng không bỏ rơi con. Chỉ cần mỗi ngày nhìn con cười, con nói, nhìn con lớn lên, trưởng thành thì đó chính là niềm hạnh phúc của cha mẹ. Thật đúng với câu “Có vàng, vàng chẳng hay phôCó con, con nói trầm trồ mẹ nghe” Con lớn lên trong vòng tay yêu thương của cha mẹ ảnh minh họa 3. Chữ Phủ Nghĩa là che chở, vỗ về. Từ khi con còn bé, mỗi lần con đau ốm, cha mẹ vỗ về, ngày đêm túc trực, chăm sóc con từng li từng tí. Khi đêm đông, sợ con bị rét lạnh, cha mẹ ôm chặt con vào lòng, sưởi ấm cho con, ủ ấm lấy hơi của mình truyền sang cho con xua tan đi giá lạnh để con được yên giấc ngủ ngon. Mỗi khi con ốm, mẹ là người luôn bên cạnh, túc trực chăm sóc cho con ảnh minh họa 4. Chữ Súc Chữ “Súc” trong từ súc dưỡng, ăn uống nuôi nấng, bú mớm. Mỗi chúng ta đều từ trong thai mẹ mà lớn lên, nhờ ơn mẹ nuôi nấng nên chúng ta mới được khỏe mạnh nên người. Khi con còn trong thai, sợi dây rốn kết nối giữa con và mẹ, mang máu, dinh dưỡng từ mẹ để con phát triển khỏe mạnh. Khi con sinh ra đời, mẹ dù thế nào cũng đều vì con mà cố gắng ăn uống những gì tốt nhất, bổ nhất để có sữa cho con. Bởi mẹ hiểu rằng, sữa mẹ rất quan trọng đối với sự phát triển thể chất của con. Đó là một trong chín ân sâu mà mỗi người con cần khắc cốt ghi tâm, đem theo suốt cuộc đời. Mẹ ăn uống đầy đủ để con ở trong thai phát triển khỏe mạnh ảnh minh họa 5. Chữ Trưởng Sinh con ra đã khó khổ, để nuôi dạy con trưởng thành thì cha mẹ lam lũ, càng vất vả bội phần. Đó chính là ý nghĩa của chữ thứ năm, chữ “Trưởng”. Cha mẹ làm nghề công chức, công nhân, tiểu thương buôn bán hay bất kì nghề gì đi chăng nữa, cha mẹ cũng rất vất vả sớm hôm, chỉ mong sao con được ăn học đàng hoàng, được bằng bạn bằng bè không phải tủi thân. Trong cuộc sống, chúng ta nghe thấy không ít những câu chuyện về cha mẹ vì con mà dù khó, dù khổ cũng làm. Chúng ta hãy dành thời gian nghĩ đến cha mẹ, khi mình ngồi trên ghế nhà trường mát mẻ, nơi làm việc thanh nhàn thì cha mẹ ở nhà đầu tắt mặt tối, mồ hôi nhễ nhại vất vả. Cho nên mọi sự thành tựu của chúng ta đều nhờ công sức lớn lao của cha mẹ mà ra. Cha làm việc vất vả sớm hôm để con được ăn uống no đủ, học hành đàng hoàng ảnh minh họa 6. Chữ Dục Chữ “Dục” mang ý nghĩa dạy dỗ. Cha mẹ là người thầy đầu tiên trong đời của chúng ta. Cha mẹ dạy ta tập lẫy, tập bò, tập đi rồi tập nói. Từ kinh nghiệm sống của mình, cha mẹ dạy con cách ứng xử từ trong gia đình cho đến ngoài đời xã hội. Chính nhờ cha mẹ dạy dỗ mà chúng ta mới biết sống đạo đức, đạt được thành tựu trong cuộc đời này. Vì thế, có thể nói, cha mẹ chính là người thầy đầu tiên và cũng là thầy của chúng ta trong suốt cả cuộc đời. Nếu chúng ta khéo biết nhìn, biết học thì tấm gương của cha mẹ luôn là bài học quý báu cho chúng ta. Cha là người thầy đầu tiên dạy con biết đọc, biết nói, dẫn dắt con vào đời ảnh minh họa 7. Chữ Cố Chữ “Cố”, nghĩa là ngóng trông, nhìn về, hướng tới. Đối với cha mẹ thì các con là khúc ruột nên không lúc nào cha mẹ rời mắt khỏi các con, lúc nào cũng nghĩ đến và ngóng trông con. Con dù lớn khôn, trưởng thành nhưng đối với cha mẹ, con vẫn là đứa con bé bỏng ngày nào cha mẹ vẫn ẵm trên tay, là đứa trẻ còn non dại cần được yêu thương, che chở; vậy nên mới có câu “mẹ già trăm tuổi, vẫn thương con tám mươi”. 8. Chữ Phục “Phục” nghĩa là quấn quýt, không rời. Cha mẹ bao giờ cũng thế, không muốn rời con, lúc nào cũng muốn con quấn quýt bên mình. Vậy mà, chúng ta không hiểu được điều ấy, lớn lên rồi lại chỉ muốn rời khỏi vòng tay cha mẹ để được tự do, khám phá thế giới bên ngoài; mà quên rằng, nơi quê nhà, cha mẹ vẫn ngày ngày tựa cửa ngóng trông con về. Thiếu vắng con là thiếu vắng niềm vui, ngôi nhà trở nên vắng vẻ. Vậy nên, chúng ta hiểu lòng cha mẹ thì đừng làm cha mẹ buồn lòng. Dù bận đến đâu, chúng ta cũng nên sắp xếp về quây quần bên cha mẹ để cha mẹ được vui vẻ, được thấy niềm hạnh phúc gia đình đoàn tụ, sum vầy. Niềm hạnh phúc của mẹ là con ảnh minh họa 9. Chữ Phúc Chữ thứ chín cũng là chữ cuối cùng, đó là chữ “Phúc”. “Phúc” có nghĩa là che chở, bảo vệ. Quả thật, cha mẹ nào cũng đều có tâm che chở bảo vệ cho con bởi vì con là giọt máu của cha mẹ. Đối với con, cha mẹ luôn yêu thương con vô điều kiện, vô bờ bến, sẵn sàng bảo vệ cho con. Dù phải hy sinh thân mình vì con, cha mẹ cũng không hề tiếc, sẵn sàng chịu khổ, thiệt thòi về mình để con được bình an. Xem thêm Duyên nợ giữa cha mẹ và con cái Mẹ luôn là người che chở, bảo bọc cho con ảnh minh họa Hiểu về ý nghĩa “chín chữ cù lao”, chúng ta mới thấy ân đức sinh thành cha mẹ rất lớn mà không có ngôn từ nào kể hết được. Thế nhưng, chúng ta biết rằng mình không chỉ có cha mẹ hiện đời mà còn có cha mẹ trong các kiếp quá khứ. Bởi Đức Phật dạy rằng, tất cả chúng sinh đều từng là cha mẹ của chúng ta; tất cả chúng sinh đều từng là cha mẹ của Đức Phật. Thế nên, Đức Phật trong vô số kiếp quá khứ tinh tấn tu hành để cứu độ chúng sinh, báo đền ân đức cha mẹ. Cho nên, Đức Phật là bậc Đại Hiếu. Là người đệ tử Phật, chúng ta phải tu tâm hiếu đạo, đặt hiếu đạo lên hàng đầu. Chúng ta phải sống thật tốt, không làm khổ mình, không làm khổ người. Dù sống ở đâu, trong quốc độ, môi trường nào, chúng ta cũng cần tu thân, dưỡng đức và chỉ nghĩ làm lợi ích cho chúng sinh. Đó mới thật là người biết đạo, đó mới thật là báo đền ân đức của cha mẹ, ân đức của chúng sinh. Mong sao, từ bài giảng của Thầy Thích Trúc Thái Minh về “chín chữ cù lao”, mỗi người đều phát khởi được tâm hiếu thuận với cha mẹ, bởi nếu ai ai cũng tu được tâm hiếu thuận thì đất nước sẽ rất tốt đẹp. Nhân mùa Vu Lan vừa rồi, có một ngôi chùa miền Trung treo bức đại tự “Công cha như núi ngất trời/ Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông/ Núi cao biển rộng mênh mông/ Cù lao chín chữ ghi lòng ai ơi”. Vậy cù lao trong câu ca dao nghĩa là gì, có liên quan gì đến cách gọi các hòn đảo ngoài biển hay không? Lễ Vu Lan báo hiếu. Ảnh Internet 1. Trong Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du, tả tâm tư Thúy Kiều phân vân giữa mối tình với Kim Trọng và quyết định hy sinh bán mình chuộc cha, truyện có câu “Duyên hội ngộ, đức cù lao/ Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn?” hay “Nhớ ơn chín chữ cao sâu/ Một ngày một ngã bóng dâu tà tà”. Chữ cù lao trong ca dao và Truyện Kiều có nghĩa khác hẳn so với danh từ cù lao, để chỉ các hòn đảo giữa sông, hay chí Kiến thức ngày nay số ra ngày tác giả An Chi giải thích, hai chữ Cù và Lao đồng nghĩa là nhọc nhằn, vất vả. Vì vậy chúng đi với nhau để tạo thành một từ ghép đẳng lặp nhằm diễn đạt một ý tổng quát hơn. Ông trích dẫn “Kinh Thi có câu “Cù lao vu dã”, nghĩa là thương thay cha mẹ nhọc nhằn sinh ta”. Tầm nguyên tự điển của Bửu Kế nói về chữ này cũng trích Kinh Thi “Ai ai phụ mẫu/ sinh ngã cù lao - thương xót thay cha mẹ sinh ta khó nhọc”. Hán Việt tự điển của Đào Duy Anh NXB Duy Tân năm 1949 chú giải “Cù - Nhọc nhằn siêng năng/ Cù lao - siêng năng khó nhọc”. Với chữ lao, trong tự điển này giải thích “Nhọc lòng, nhọc sức - Khó nhọc - Công khó nhọc”.Tuy vậy trong câu ca dao trích dẫn trên, cù lao đến chín chữ Cửu tự cù lao, là gồm những chữ nào? Trong Tầm nguyên tự điển giải thích chín chữ đó gồm sinh đẻ, cúc nâng, đỡ, phủ vuốt ve, xúc cho bú, trưởng làm cho lớn, dục dạy dỗ, cố đoái tưởng đến, phục săn sóc, dạy bảo, phúc bảo vệ. Ngoài ra có một vài tự điển khác có cách giải thích khác đi một ít, ví dụ phục quấn quýt, xúc nuôi cho lớn… Nhưng nhìn chung các sách đều cùng một cách giải thích chín chữ cù lao có nghĩa công ơn dưỡng dục của cha Trong điển tích Phật giáo, Kinh Vu Lan báo hiếu có câu chuyện kể Tôn giả Mục Kiền Liên vượt qua trăm ngàn thử thách, gian khổ để đến địa ngục cứu mẹ. Ông hỏi “Làm thế nào để cứu mẹ của con?”, Đức Phật nói “Ngày âm lịch 15 tháng 7, sau ba tháng của các nhà sư tu tập phát tâm cúng dường tam bảo để lấy phước cứu mẹ”. Mục Kiền Liên theo lời Phật dạy tổ chức cúng dường chư tăng và từ đó mẹ của ngài được sanh về cõi lành. Lòng hiếu thảo của Mục Kiền Liên cao quý, từ đó mỗi năm vào rằm tháng 7, Phật giáo có đại lễ Vu Lan báo hiếu, ôn lại tích hiếu thảo của ông, nhằm nhắc nhở Phật tử luôn tưởng nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ và bổn phận báo hiếu của người nhân dạy, người làm con với cha mẹ phải có năm cử chỉ “Phàm vi nhân tử giả, xuất tất cáo, phản tất diện, du tất hữu thường, tập tất hữu nghiệp, hằng ngôn bất xưng lão”. Nghĩa là Phàm làm con thì phải đi thưa, về trình, đi chơi thì phải chơi chỗ thường ngày, phải học tập có nghề nghiệp, thường nói năng khiêm tốn, không được huênh sách Mạnh Tử dạy năm việc sau đây được xem là bất hiếu “Nọa kỳ tứ chi, bất cố phụ mẫu chỉ dưỡng, nhất bất hiếu dã; Bác định, hiếu ẩm tửu, bất cố phụ mẫu chi dưỡng, nhị bất hiếu dã; Hiếu hóa tài tư thê tử, bất cố phụ mẫu chi dưỡng, tam bất hiếu dã; Tùng nhĩ mục chi dục, vi phụ mẫu lục, tứ bất hiếu dã; Hiếu dõng đấu ngân, dĩ nguy phụ mẫu, ngủ bất hiếu dã”. Nghĩa là Lười biếng trễ nải, chẳng đoái hoài việc nuôi cha mẹ, là điều bất hiếu thứ nhất; Mê cờ bạc, ham rượu chè, chẳng lo việc phụng dưỡng cha mẹ, là điều bất hiếu thứ hai; Ham mê tiền của, gom góp cho vợ con mà chẳng lo việc nuôi cha mẹ, là điều bất hiếu thứ ba; Buông lung theo thị dục của tai mắt, làm cho cha mẹ phải khốn đốn vì mình, là điều bất hiếu thứ tư; Ỷ sức, cậy tài đua tranh đánh lộn, làm cho cha mẹ phải bị vạ lây, là điều bất hiếu thứ Từ “cù lao”, Từ điển Từ cổ của Vương Lộc NXB Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học, 2002 còn cho biết, đó là cái quai trên đầu quả chuông. Trong Chỉ Nam Ngọc Ân có trích dẫn câu ca dao “Bây giờ tính nghĩ làm sao/ Cho chuông ấm tiếng cù lao vững vàng”.Và một từ “cù lao” khác là danh từ được hiểu theo nghĩa là phần đất hoặc là núi nổi lên giữa biển. Ví dụ như ở Quảng Nam có Cù Lao Chàm, Quảng Ngãi có Cù Lao Ré nay gọi là đảo Lý Sơn… Trong sách Phủ biên tạp lục, học giả Lê Quý Đôn có viết “Phủ Thăng Hoa, ở ngoài cửa biển Đại Chiêm có núi to gọi là Cù Lao Chàm, ba ngọn đối nhau, hai ngọn lớn mà xanh tốt, có dân cư, ruộng nương; có các thứ cam, quýt, đỗ, lạc; trên có suối nước ngọt, một ngọn nhỏ mà khô khan, ra biển hai canh thì đến…”. Kế đó sách Đại Nam nhất thống chí, thời nhà Nguyễn chính thức định danh “… cách huyện Diên Phước 68 dặm về phía Đông, ngất ngưởng giữa biển gọi là đảo Ngoạ Long, cũng gọi là hòn Cù Lao, có tên nữa là Tiêm Bút, tên cổ là Chiêm Bất Lao; dân phường Tân Hợp ở phía Nam núi; ruộng đất trên núi có thể cày cấy, thuyền bè nước ta thường trông núi này làm chừng đi về đều đỗ ở đấy để lấy củi nước…”.Cù Lao Chàm nay trên bản đồ hành chính thuộc An, với tên xã Tân Hiệp có phải chuyển từ tên Tân Hợp trong Đại Nam nhất thống chí chăng?. Người dân ven biển Hội An, Duy Xuyên gọi gọn hòn đảo này là Lao. Dân gian vùng này có ca dao “Ra Lao đốn Lụi thật Dài/ Chờ Mồ Khô Lá, xuống Tai chực Nờm nồm” ghi nhớ tên của 7 đảo nhỏ tại đây - Lao, Lụi, Dài, Mồ, Khô, Tai, Lá, trong đó Lao là hòn đảo lớn nhất, có dân cư sinh sống, còn các đảo khác tùy theo hình dáng hoặc thực vật, động vật đặc hữu trên đó mà đặt tên…

cù lao chín chữ ghi lòng con ơi