🌑 Phân Tích Đêm Đông Cứu A Phủ
Đề văn tương tự: Phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ Tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân bài văn mẫu 2 : Tô Hoài là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông được mệnh danh là nhà văn
Tâm hồn Mị được hồi sinh, được đánh thức cùng mùa xuân cùng tiếng sáo gọi bạn tình trong đêm tình mùa xuân. Mị bị trói, bị vùi dập. Mị đã vùng lên cắt dây trói cứu A Phủ rồi cùng chạy trốn. Đó là trang đời đầy máu và nước mắt của Mị, là bi kịch và sự vùng dậy của người con gái trong thân phận con dâu gạt nợ ở vùng rẻo cao ngày xưa.
Học Văn Lớp Thầy Linh Key. January 5 ·. ⭕️ Bài văn phân tích đêm đông cởi trói cứu A Phủ (chọn lọc) Bài làm. Văn chương không chỉ đơn giản là thú vui bình sinh lúc an nhàn mà còn là "điểm tựa" cho con người mỗi phút giây yếu lòng. Nó đem lại cho ta niềm tin yêu cuộc
Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cắt dây trói cứu A phủ. bài mẫu 3; Hệ thống câu hỏi và hướng dẫn trả lời bài Vợ chồng A phủ- Tô Hoài; Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cắt dây trói cứu A phủ. bài
Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài). Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" mà nhà văn Tô Hoài đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập "truyện
20 Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm mùa đông; 21 Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ; 23 Văn mẫu lớp 12: Dàn ý phân tích tâm trạng và hành động của Mị; 24 Tâm trạng và Hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ; 25
Phân tích tâm trạng của Mị trong đêm cứu A Phủ ngắn gọn Lúc đọc tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài, người đọc rất thông cảm với số phận của cô Mị và hoàn toàn có thể hiểu được lý do khiến Mị buông xuôi, cam chịu, chấp nhận số phận xấu số của mình.
Vợ chồng A Phủ: đêm mùa đông trên núi cao, => Gợi nhớ tới chị Dậu: cùng…: Vợ chồng A Phủ: đêm mùa đông trên núi cao, => Gợi nhớ tới chị Dậu: cùng chạy ra khỏi nhà tầng lớp thống trị trong đêm tối nhưng, => Điểm khác biệt căn bản giữa các tác phẩm hiện thực trước và sau CMT8, => vì thế, dù bị A Sử
Tham khảo chọn lọc những bài văn hay phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ - Văn mẫu lớp 121, Hướng dẫn phân tích1 trong tim, không hẳn cthị xã gì Mị cũng bình tĩnh. Mị khôn cùng sợ đa số đêm ngày đông bên trên núi cao lâu
Q0ox. Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc Khi lòng ta đã hóa những con Tàu Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên Tây Bắc từ lâu đã được xem như một mảnh đất hứa cho văn chương nghệ thuật, bởi nơi ấy không chỉ để lại nhiều ân tình mà còn khiến cho các nhà văn, nhà thơ có được những nguồn cảm hứng bất tận. Nếu như Nguyễn Huy Tưởng đã có cho mình cuốn tiểu thuyết "Bốn năm sau", Nguyễn Tuân ghi dấu ấn với tập tùy bút "SĐ", Nguyễn Khải viết nên "Mùa lạc" thì Tô Hoài lại đưa tên tuổi mình lên một tầm cao mới với tập "Truyện Tây Bắc", trong đó tiêu biểu nhất là truyện ngắn VCAP. Thưởng thức tác phẩm, người đọc không khỏi ấn tượng với tâm hồn tự do, khao khát hạnh phúc của người lao động nơi đây. Vẻ đẹp ấy đã được Tô Hoài thể hiện thật tinh tế và cảm động thông qua nhân vật Mị, đặc biệt là ở đoạn trích Mị trong đêm đông cứu A Phủ. Tô Hoài là một cây bút văn xuôi tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Các tác phẩm của ông hấp dẫn người đọc ở cái nhìn hồn nhiên mà sắc sảo, cách kể chuyện sống động, hóm hỉnh cùng những giá trị hiện thực và nhân đạo mới mẻ. Năm 1952, Tô Hoài theo đơn vị bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, sống gắn bó với đồng bào 8 tháng. Khi chia tay, Tô Hoài viết tập "Truyện Tây Bắc" 1953 bằng sự am hiểu tường tận cuộc sống, phong tục, nhất là tâm hồn phóng khoáng, tự do phảng chút hoang dại của đồng bằng miền núi cùng nỗi ám ảnh về những kỉ niệm gắn bó và món nợ ân tình với người Tây Bắc. "Vợ chồng A Phủ" là truyện ngắn thành công nhất của Tô Hoài ở mảng đề tài về người lao động Tây Bắc, khắc họa chân thực cuộc sống tăm tối của họ và con đường vùng lên phản kháng khỏi sự áp bức, đày đọa của bọn thực dân, chúa đất. Mị là nhân vật trung tâm của truyện, là một cô gái người Mèo xinh đẹp, trẻ trung, có tài thổi lá, thổi sáo làm say mê biết bao nhiêu chàng trai. Mị cũng là một người hiếu thảo, chịu khó, yêu lao động, khao khát tự do và luôn ý thức được quyền sống của mình. Sau khi về làm con dâu gạt nợ nhà Thống Lí, Mị bị bóc lột sức lao động, bị áp chế bởi cường quyền và thần quyền, bị ngược đãi bởi người chồng vũ phu. Từ một cô gái hồn nhiên, hạnh phúc, Mị trở thành người đàn bà chai sạn và vô cảm. Nhưng sự thống khổ ấy không thể dập tắt được sức sống tiềm tàng, mãnh liệt trong con người Mị. Trong đêm tình mùa xuân năm ấy, Mị đã có một cuộc vượt thoát về tâm hồn, dù đã bị trói vào cột nhà nhưng tâm trí vẫn đưa theo những đám chơi. Tuy đó chỉ là hành động bộc phát, trong những khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng sức sống tiềm tàng mãnh liệt đã báo hiệu cho sự bừng tỉnh về nhận thức và cháy bùng lên ngọn lửa tự do để giải thoát cho mình và người cùng cảnh ngộ. Nếu chỉ dừng lại ở đêm tình mùa xuân thì cũng chỉ giống như một đợt sóng, dâng lên rồi lại tan ra, sức sống tiềm tàng, âm ỉ trong Mị vẫn bị một lớp tro tàn phủ mờ lên đó. Và rồi đêm đông cứu A Phủ đã đến như một luồng gió để thổi bùng lên sức sống ấy, cũng như làm trỗi dậy lớp sóng ngầm của sự phản kháng vẫn luôn hiện diện bấy lâu ở Mị. Đoạn trích nằm ở nửa sau tác phẩm, miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm đông cắt dây trói cứu A Phủ. Lúc đầu, Mị hiện lên với hình ảnh một con người trong trạng thái tê liệt tinh thần, tâm hồn vô cảm, chai sạn, băng giá. Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, đêm nào Mị cũng dậy thổi lửa hơ tay, còn A Phủ thì bị trói đứng chờ chết. Ban đầu, mỗi khi thấy cảnh đó, Mị vẫn dửng dưng, rằng dù A Phủ có là cái xác chết đứng đấy thì cũng thế thôi. Sự thờ ơ đó, phải chăng là vì người chết ở nhà thống lý đã chẳng phải chuyện lạ, hay vì Mị đã "ở lâu với cái khổ" nên đã chai lì cảm xúc? Để rồi ngay cả nỗi đau của mình, Mị cũng vô cảm thờ ơ, huống gì là bận lòng vì nỗi đau của người khác. Bởi lẽ, nếu còn ý thức, còn cảm giác chắc Mị đã sợ đòn roi của A Phủ, đã không chai lì tiếp tục ra sưởi lửa vào những đêm sau. Các từ ngữ "thản nhiên", "cũng thế thôi" cho thấy sự vô cảm đến tàn nhẫn của Mị, Mị không gợn một chút xót xa nào. Mị không quan tâm bất cứ điều gì ngoài ngọn lửa mỗi đêm vẫn thao thức bên Mị, dường như ngọn lửa với Mị là để bầu bạn và sưởi ấm phần nào sự cô đơn, nguội lạnh trong tâm hồn. Đắng cay thay cho Mị, một cô gái đã đánh mất luôn cả tình thương, lòng nhân ái. Đó là chứng tích của ách áp bức nặng nề, dai dẳng và đầy đau đớn, và cũng là sự lên án của nhà văn đối với những thế lực cường quyền, thần quyền đã đẩy con người vào trạng thái tê liệt ý thức. Từ vô cảm, dửng dưng, Mị đã được dòng nước mắt của A phủ đánh thức rồi trở nên đồng cảm với số phận của người cùng cảnh ngộ. Đối với A Phủ, một người đàn ông vốn mạnh mẽ, gan góc, một người chẳng e dè mà thẳng tay trừng trị con quan, thì những giọt lệ ấy chính là nỗi tuyệt vọng không thể nói ra bằng lời. Hình ảnh "Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại" đã làm hiện hữu một cách chân thực nỗi thống khổ, sự đau đớn và bất lực tột cùng của một kẻ đang hấp hối, của một thân phận nô lệ đang tủi nhục trước số phận. Dòng nước mắt ấy không chỉ chảy xuống đôi gò má "đã xám đen" của A Phủ mà còn chảy vào trái tim băng giá của Mị, tác động trực tiếp đến mảnh hồn tưởng chừng như đã khô héo, lặng câm trước cuộc đời. Từ cõi quên trở về cõi nhớ, nước mắt của A Phủ và cảnh tượng bị trói đứng thế kia đã thức dậy trong Mị kí ức hãi hùng, rằng Mị cũng từng bị ngược đãi, cũng từng trải qua cái tủi nhục như thế, khi mà nước mắt "chảy xuống miệng xuống cổ không biết lau đi được". "Trông người lại ngẫm đến mình", trái tim Mị quặn đau. Nhà văn không nói đến nỗi đau đớn về thể xác của Mị, không nói ra nỗi tủi nhục của A Phủ nhưng từ điểm nhìn của Mị, người đọc đã thấm thía được điều ấy. Mị cảm nhận nỗi đau của A Phủ bằng chính nỗi đau của mình. Sự đồng cảnh đã dẫn dắt trái tim đến với những sự đồng cảm đầu tiên. Nhà giáo Đỗ Kim Hồi cho rằng, "Nước mắt A Phủ đúng là một chi tiết đã nâng tầm Tô Hoài". Thật vậy, dòng nước mắt đã nối số phận của hai con người lại với nhau, trước là chứa đựng nỗi tủi nhục không thể nói hết của A Phủ, sau là kéo Mị ra khỏi sự tê liệt cảm xúc. Quả là một chi tiết nhỏ nhưng lại mang trong mình sức chứa lớn lao. Đó hẳn phải là kết quả của một tấm lòng trăn trở trước những số phận bị đày ải và tài năng, tâm huyết của nhà văn Tô Hoài. Có được sự đồng cảm trong trái tim cũng là lúc Mị nhận thức được sâu sắc nỗi tủi nhục của mình và A Phủ cũng như tội ác tày trời của giai cấp thống trị mà đại diện là cha con thống lý Pá Tra. Câu độc thoại nội tâm đã phản ánh cảm xúc mãnh liệt của Mị "Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này". Câu văn sử dụng phép điệp cấu trúc, nhịp điệu dồn dập, sắc thái như tiếng kêu thấu trời xanh. Đoạn văn lặp lại đến 9 lần động từ "chết", thêm một lần từ "rũ xương", nhất là phép điệp tăng cấp "Chết đau, chết đói, chết rét, phải chết." Mỗi lần từ "chết" được điệp lại dường như lòng thương A Phủ và lòng căm phẫn tội ác cha con nhà thống lý trong Mị càng nhân lên gấp bội, để rồi sau đó, như một phản ứng dây chuyền, nối ại ba số phận Nghĩ đến cái chết oan nghiệt của người đàn bà ngày trước, đến cảnh mình bị trói, cảnh A Phủ sắp phải chết. Mị nhận ra giá trị của con người bị chà đạp đến thê thảm, nhận ra nỗi thống khổ tột cùng của những số phận bị đày ải. Để rồi Mị hiểu ra sự tàn độc, phi lý của giai cấp thống trị "Chúng nó thật độc ác". Đó là sự bừng tỉnh, sự nhận thức đầy lý trí chứ không dừng lại ở cảm xúc đơn thuần. Mị độc thoại với chính mình "Cơ chừng này thì chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây mà thôi.. Người kia việc gì phải chết?" Nghĩ đến một A Phủ đang bị đẩy đến bờ vực của cái chết, Mị thấy phi lý đến mức không thể chấp nhận. Hai tiếng "A Phủ" lần đầu tiên ngân lên trong lòng Mị, nhè nhẹ, phảng phất một hơi thở của tình thương. Trong suy nghĩ ấy, Mị đã nghiêng phần sống của mình cho A Phủ, đó là sự thức dậy của lòng nhân ái giữa những con người đồng cảnh ngộ và cũng là điểm tựa cho những hành động táo bạo của Mị về sau. Lòng trắc ẩn, tình thương giai cấp đã đưa Mị đến với ý nghĩ giải thoát cho A Phủ. Trước khi cởi trói, diễn biến tâm lý của Mị rất phức tạp "Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình." Tưởng chừng như chỉ là một chi tiết bâng quơ nhưng lại chứa đựng nhiều ẩn ý. Đám than đã "vạc hẳn lửa" khiến bóng tối tràn ngập không gian. Ngọn lửa vật lí, ánh sáng tự nhiên vụt tắt, ẩn mình khuất lấp trong những tàn than. Nó nhường bước cho ngọn lửa mới, đó là lửa hồng tâm hồn, ngọn lửa của lòng người – thứ lửa nhân văn, bền bỉ và cháy sáng nhất. Đám than tàn cũng là lúc ngọn lửa trong Mị bừng cháy, soi rõ quá khứ đời Mị, khiến "Mị nhớ lại dợi mình", chợt nhận ra đời mình chỉ thấy toàn khổ đau, bất công, ngang trái Bị bóc lột sức lao động, bị ngược đãi bởi người chồng vũ phu, bị cầm tù tinh thần bởi thần quyền. Đời Mị có thể sẽ chết rũ xương ở đây, nhưng A Phủ thì không phải thế. Từ cuộc đời dài dằng dặc những đau khổ của mình, nghĩ tới A Phủ, Mị tưởng tượng rằng "Như có thể một lúc nào, biết đau A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào, Mị phải chết trên cái cọc ấy." Hai hình ảnh song hành diễn ra trong tưởng tượng của Mị Cảnh A Phủ đã trốn thoát và cả cái chết của mình sẽ đến ngay sau đó. Nhưng mị không sợ, đối với Mị bây giờ cái chết không còn là điều gì ghê gớm nữa. Điều gì đã khiến mị không sợ hãi? Đó phải chăng là lúc lòng thương người đã chiến thắng mọi nỗi sợ cường quyền và thần quyền? Tình thương giai cấp đã lớn hơn nỗi sợ trong lòng Mị, cởi trói cho A Phủ cũng chính là cách để Mị cởi bỏ nút thắt trong lòng. Đó là biểu hiện cao nhất của sự thức tỉnh, là hành động táo bạo, bất ngờ, nhưng vô cùng hợp lý, vốn đã luôn nằm trong sức sống nội tại của nhân vật. Hành động cắt dây trói cho A Phủ và vùng chạy theo của Mị là biểu hiện cao nhất của sức sống, sức phản kháng mãnh liệt. "Mị lấy con dao chẫu nhỏ, cắt từng nút dây mây". Hành động nhanh, gọn chứng tỏ nó đã được thúc đẩy bởi rất nhiều tâm trạng Lòng thương người và sự căm phẫn đến tột cùng tội ác của cha con nhà thống lý. Đây là hành động bản năng nhưng là lẽ tất yếu. Bởi thế, sau hành động dứt khoát ấy là tâm lý "hốt hoảng", "nghẹn lại" đầy chơi vơi. Hành động của mỗi con người đều là sự cấu thành từ những cảm xúc, tâm lý đan xen cùng lúc, dù cho việc làm ấy có là bột phát. Vậy mới thấy, từng gấp khúc dù là nhỏ nhất trong tâm trạng Mị đã được Tô Hoài diễn tả thật thuyết phục và cảm động. "Mị đứng lặng trong bóng tối". Câu văn ngắn, tách thành một dòng riêng nằm chơi vơi ở giữa những câu chữ ngổn ngang. Tuy ngắn về câu chữ nhưng ẩn sau đó là cả một cuộc đấu tranh nội tâm đầy dữ dội của Mị Sống hay chết? Đi hay ở? Nô lệ hay tự do? Cuối cùng, tiếng gọi tự do đã vẫy gọi Mị. Trong giây phút đối diện với bản án tử hình ấy, lòng ham sống mãnh liệt đã trỗi dậy và thúc giục Mị chạy theo A Phủ. Đoạn văn tiếp theo miêu tả hành động Mị với toàn những động từ mạnh "Vụt chạy", "băng đi", "đuổi kịp", "lăn", "chạy xuống", "nói", "thở". Đó là khoảnh khắc mà nội lực và sức phản kháng của Mị đã cháy bụng lên mạnh mẽ. "Một tia lửa nhỏ hôm nay báo hiệu đám cháy ngày mai" Lỗ Tấn. Thật vậy, nếu đêm tình mùa xuân là "tia lửa nhỏ" thì hành động chạy theo A Phủ của Mị đã thực sự trở thành "đám cháy". Bước chân ấy không còn là bước chân của con rùa, con trâu, con ngựa nữa mà là bước chân đầy mạnh mẽ, cứng cỏi, quật cường vùng lên để đi tìm ánh sáng tự do. Đến đây, ta chợt nhớ tới lời thơ Tố Hữu "Những bàn chân đã vùng dậy đạp đầu Lũ chúa đất xuống bùn đen vạn kiếp" Khoảnh khắc Mị vụt chạy theo A Phủ để tìm đường sống cũng có thể ví như một khoảnh khắc ngắn ngủi về thời gian vật lí nhưng vô tận về ý nghĩa nhân sinh bởi nó chứa đựng sự dồn nén của cảm xúc, sự thức bừng tỉnh của hồn người, chất chứa bao suy ngẫm về sức sống tiềm tàng của con người cũng như hành trình vùng lên chống lại cái tàn nhẫn, bất công để tìm đến sự tự do của người lao động. Khoảnh khắc ấy đã hé mở biết bao nhiêu cảm xúc trong lòng bạn đọc và cũng là biểu hiện cho chiều sâu nhân đạo của ngòi bút Tô Hoài. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn chọn đêm đông là thời điểm Mị và A Phủ chạy thoát khỏi Hồng Ngài, bởi lẽ đó là ấn dụ cho sự khép lại của một quá khứ tăm tối, lạnh lẽo, mịt mờ, hứa hẹn một ngày xuân tự do, hạnh phúc trong tương lai. Thực chất, đây cũng chính là quá trình mà Mị được soi sáng, từ chỗ nhận thức được sự lạnh lùng, tàn bạo của xã hội, nhận thức được sự bất công, phi lý sắp giết chết một con người vô tội, Mị cắt dây trói cho A Phủ cũng là cắt đi sự trói buộc giữa cô với sự đày ải nặng nề ở nhà thống Lý, điều ấy hoàn toàn đúng với lý luận cũng như thực tiễn thời đại. Các Mác từng nói, "Nơi nào có áp bức, nơi đó có đấu tranh", hay như dòng đầu liên của tuyên ngôn các Đảng cộng sản, F. Ăng ghen cũng đã khẳng định "Lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp, áp bức bóc lột của giai cấp thống trị càng nặng nề, sự vùng lên đấu tranh càng mạnh mẽ." Diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm đông cứu A Phủ đã góp phần thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm. Từ cuộc đời Mị, nhà văn muốn khẳng định một chân lý, rằng bạo lực không thể hủy diệt khát vọng của con người, đồng thời lên án đanh thép chế độ cường quyền, thần quyền đã chà đạp con người đến tê liệt sức sống, biến họ thành kiếp nô lệ. Qua nhân vật Mị, ta đã thấy được ở số phận khổ đau ấy một sức sống tiềm tàng, từ đó cảm nhận được chiều sâu nhân đạo trong ngòi bút Tô Hoài, vừa cảm thông cho kiếp người khổ cực, vừa ngợi ca lòng ham sống, khát vọng tự do, niềm tin vào một tương lai tươi sáng. Đến đây, cái nhìn nhân đạo đã được nâng lên một tâm cao mới, khi mà ở các tác phẩm trước Cách mạng như Tắt đèn, Chi Phèo, người nông dân cũng rơi vào đường cùng, và rồi nhận lấy một kết cục hết sức tối tăm, nhưng với VCAP, khi ánh sáng của Đảng, của cách mạng soi rọi, khơi dậy ở họ ý thức thời đại, nhà văn đã nhìn thấy khả năng vùng dậy của những người lao động bị đày ải, đưa họ đến cuộc đời tự do. Đây chính là sự kế thừa những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật, đồng thời khắc phục nhược điểm của chủ nghĩa hiện thực phê phán của những năm 1930 – 1945, văn học 1945 - 1975 bắt đầu thấy được khả năng đấu tranh tiềm tàng của con người, đã nhận thức được quy luật phát triển tất yếu của lịch sử. Không chỉ đặc sắc về nội dung tư tưởng mà đoạn văn còn là một thành công ở phương diện nghệ thuật. Tô Hoài đã đặt nhân vật này vào một hoàn cảnh đặc biệt đầy kịch tính, thúc đẩy sự vùng lên ở Mị. Cách kể chuyện hấp dẫn, giọng điệu biến đổi linh hoạt, nhịp kể chậm rãi, sẻ chia, giọng kể trầm lắng đong đầy cảm xúc thể hiện tình cảm yêu thương của tác giả với nhân vật. Ngoài ra, ngôn ngữ trần thuật đa dạng, sinh động, chọn lọc, với các lớp từ thông tục, lối văn giàu tính tạo hình, vận dụng cách nói hồn nhiên, mang đập màu sắc dân tộc, phù hợp với cách cảm, cách nghĩ của người miền núi. Nhưng đáng chú ý vẫn là nghệ thuật miêu tả tâm lý, vừa khách quan, trung thực, lại vừa kết hợp khéo léo với cách nhìn bên trong của nhân vật, diễn tả đặc sắc những gấp khúc mơ hồ, những thăng trầm cảm xúc, sử dụng độc thoại nội tâm.. làm nên một dòng tâm trạng đầy kịch tính và không kém phần thuyết phục ở Mị. Như vậy, đoạn trích là một áng văn thần tình, đầy cảm xúc về sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mãnh liệt của Mị trong đêm đông cứu A Phủ. Câu chuyện khép lại, nhưng trong lòng người đọc được hé mở những cảm xúc đặc biệt khi chứng kiến con đường vùng lên của những người lao động dưới ách thống trị. Đem đến cái nhìn nhân đạo cao cả cùng thông điệp hướng đến tương lai, Tô Hoài đã thực sự trở thành "kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường." Nguyễn Minh Châu. Đây chính là điều làm nên dấu ấn của nhà văn cũng như sức sống lâu bền của VCAP. a phủ ngữ văn 12 nhân vật mị ôn thi thpt quốc gia ôn thi thptqg tô hoài văn 12 vợ chồng a phủ đêm đông cứu a phủ
Đề bài Phân tích hành động cứu A Phủ của Mị trong đoạn trích sau. Từ đó nhận xét niềm tin vào con người của nhà văn Tô Hoài. Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ… Mị phảng phất nghĩ như vậy. Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình, Mị lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ… Trích “Vợ chồng A Phủ” , Truyện Tây Bắc, Tô Hoài Bài làm tham khảo I/ MB Giới thiệu khái quát nhà văn Tô Hoài và truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, giới thiệu đoạn 1 dẫn dắt vào vấn đề nghị luậnÝ 2 giới thiệu tác giả – tác phẩmII/ Thân bài giải quyết vấn đề nghị luận1/ Khái quát vào nội dung phân tích2/ Thực hiện yêu cầu chính Phân tích diễn biến tâm trạng của Mị khi quyết định cứu A Phủa/ Giới thiệu nhân vật Mịb/ Phân tích đoạn tríchLuận điểm 1 Hoàn cảnh xảy ra và tâm trạng Mị trước khi cứu A PhủLuận điểm 2 Tác nhân đánh thức Mị, thôi thúc Mị cứu A PhủLuận điểm 3 Diễn biến tâm lí của Mị khi cắt dây trói cứu A Phủ. 2/ Thực hiện yêu cầu phụ Nhận xét về niềm tin vào con người của nhà văn Tô Hoài. 3/ Đánh giá chungIII/ Kết bài I/ MB Giới thiệu khái quát nhà văn Tô Hoài và truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, giới thiệu đoạn trích. VD Mở bài gián tiếp Ý 1 dẫn dắt vào vấn đề nghị luận Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc Khi lòng ta đã hóa những con tàu Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên Đó là những lời thơ tha thiết của Chế Lan Viên khi viết về mảnh đất và con người Tây Bắc. Vùng đất trời mây non nước “sớm sương muối, tối sương mù , trưa hoe hoe nắng, chiều tù mù mây” đã trở thành nơi gửi gắm tâm tình của biết bao trái tim nghệ sĩ. Tô Hoài đã từng thốt lên rằng “đất và người Tây Bắc đã để thương, để nhớ cho tôi nhiều quá”. Niềm thương, nỗi nhớ ấy đã tạo nên những áng văn chương làm lay động bao trái tim độc giả. Và “VCAP” là một tác phẩm như thế. Một tác phẩm viết về vùng đất Tây Bắc rộng lớn , lấp lánh vẻ đẹp của những con người vùng núi cao, không cam chịu kiếp nô lệ, không cam chịu sự chà đạp của bọn chúa đất phong kiến mà vươn lên để tìm tự do, hạnh phúc cho riêng mình. Sức sống ấy được Tô Hoài truyền tải rõ nét trong hành động cứu A Phủ của Mị vào đêm tình mùa đông trên đất Hồng Ngài. Ý 2 giới thiệu tác giả – tác phẩm Tác giả Nhà văn hóa, phe bình văn học Vương Trí Nhàn từng khẳng định “ Quen biết nhiều, từng trải lòng, Tô Hoài đã trở thành cuốn từ điển sống của nghề văn”. Bức tranh đời sống trong văn Tô Hoài là những trang văn hấp dẫn người đọc bằng vốn kiến thức phong phú về cuộc sống và con người miền núi, đó đã trở thành mảng sáng tác chính, quan trọng và có giá trị của Tô Hoài. Là nhà văn từng gắn bó sâu sắc với đất và người Tây Bắc, Tô Hoài viết rất hay, rất sâu về đề tài này. Và có lẽ, chính mảnh đất ấy với tài năng sẵn có và tấm lòng nhân hậu, giàu tình yêu thương đã mang đến cho Tô Hoài những thành công vang dội. Tác phẩm “Văn là kết tinh, là ngọc đọng, là phiến kỳ nam trong rừng trầm hương” và có lẽ những kết tinh mà Tô Hoài thu được sau chuyến đi thực tế tháng 8 năm 1952 lên vùng núi cao Tây Bắc là tập “Truyện Tây Bắc”- một thành quả lao động đẹp trong mùa thu hoạch đầu tiên “trên quê hương văn học mới” của ông. Cho đến tận hôm nay, người đọc vẫn dành nhiều yêu mến cho “VCAP” – một tác phẩm tiêu biểu nhất trong tập truyện này. Truyện viết về Mị – nhân vật trung tâm mà nhà văn Tô Hoài dành nhiều thời gian và tâm huyết để xây dựng, qua đó làm nổi bật sức sống tiềm tàng và khát vọng sống của con người lao động. Vẻ đẹp và niềm khao khát ấy được thể hiện qua diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm mùa đông cắt dây trói, giải thoát cho A Phủ. II/ Thân bài giải quyết vấn đề nghị luận 1/ Khái quát vào nội dung phân tích Trước Tô Hoài, đề tài miền núi là một khoảng trống trong văn học Việt Nam. Viết “VCAP”, Tô Hoài đã tìm kiếm và phát hiện ra một đề tài mới. Đó là bức tranh đời sống của con người miền núi Tây Bắc. Muối lắng ở ô nề, văn lắng ở bề sâu, dưới lớp ngôn ngữ lấp lánh ánh sáng tạo nên từ cuộc đời Mị , nhà văn đã lấy đó làm đòn bẩy phơi bày bản chất thối nát của xã hội, nhà văn không chỉ lên án, tố cáo bọn phong kiến chúa đất mà còn ngợi ca vẻ đẹp về khát vọng tự do, hạnh phúc cùng sức sống mãnh liệt trong tâm hồn con người lao động qua cuộc đời và số phận của Mị. 2/ Thực hiện yêu cầu chính Phân tích diễn biến tâm trạng của Mị khi quyết định cứu A Phủ a/ Giới thiệu nhân vật Mị Đọc một tác phẩm , cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn ta là cảm xúc, suy tư của nhà văn về nhân vật. Tô Hoài cho rằng “nhân vật là nơi tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác”. Đến với nhân vật Mị, trước hết, bạn đọc ấn tượng nhất chính là hình ảnh cô gái trẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc với nhiều tài năng khiến bao chàng trai mê đắm. Thế nhưng, món nợ truyền kiếp của bố mẹ như một sợi dây oan nghiệt trói Mị vào nhà thống lí. Mị buộc phải làm con dâu gạt nợ. Cuộc sống ở nhà thống lí Pá Tra như một chốn địa ngục trần gian mà Mị là tên tù khổ sai với bản án chung thân. Mị sống như một nô lệ trong nhà thống lí. b/ Phân tích đoạn trích Luận điểm 1 Hoàn cảnh xảy ra và tâm trạng Mị trước khi cứu A Phủ Hoàn cảnh xảy ra hành động Nhà văn Tô Hoài khẳng định “ Cái khổ, cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn, phủ khuất, che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị . Và chỉ cần có một luồng gió mạnh, đủ sức thổi đi lớp tro tàn nguội lạnh ấy thì đốm lửa sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình”. Và cuối cùng thì luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da, cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó, Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét vì tội để hổ vồ mất một con bò. Chính trong đêm đông ấy, khát khao hạnh phúc tạm ngủ yên trong hoàn cảnh nghiệt ngã của Mị bỗng tràn về và bung nở sức sống. Nếu như ở cuộc nổi loạn lần thứ nhất, không khí tưng bừng của đêm tình mùa xuân , đêm say nồng bên bếp lửa hay tiếng sáo gọi bạn đã báo hiệu trước một cuộc thay da đổi thịt trong cuộc sống tăm tối, nhàm chán lặp đi lặp lại của Mị thì ở lần hồi sinh thứ hai, trong đêm mùa đông không hề có sự báo trước bằng bất kì tín hiệu nào . Nó đến thật bất chợt, bất ngờ với người đọc và với chính bản thân Mị. Tâm trạng của Mị trước khi cứu Sau một đêm bị trói đứng, Mị rơi vào cái chết tinh thần nặng nề, đau đớn. Người phụ nữ cô đơn , bất hạnh ấy đã hoàn toàn tách biệt với thế giới xung quanh, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Lửa thông thường để sưởi ấm cho con người khi giá lạnh vì thế nó cũng có tác dụng tương tự với tâm hồn khi trống trải, cô đơn. Mị bám víu lấy bếp lửa không chỉ vì cái lạnh của núi cao mà còn vì sự buốt giá trong lòng mình “nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo. Mỗi đêm, Mị đã dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng không biết bao nhiêu lần”. Có hôm, A Sử đi chơi về, nhìn thấy Mị ngồi bên bếp lửa, hắn liền đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp nhưng hôm sau Mị “vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước”. Vậy nên, nếu A Sử có đánh chết thì Mị vẫn lặng thinh, thờ ơ , thản nhiên đến mức lạnh lùng như thế. Bây giờ, đến cái thân mình bị đánh, Mị cũng chẳng thiết nói gì đến mọi thứ xung quanh nên khi tận mắt chứng kiến A Phủ chết dần trong đói rét, đau đớn, Mị vẫn dửng dưng “Nếu A Phủ có là cái xác chết đứng đấy thì cũng thế thôi”.Với những câu văn trần thuật lạnh lùng, nhà văn đã lột tả hình ảnh một con người vô cảm , hành động theo thói quen chứ không phải một sinh thể đang sống. Cảnh tượng ấy vốn đã rất quen thuộc trong nhà thống lí, “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” . Tâm hồn Mị tưởng như chai sạn trước tất cả những đau thương của người khác. Tâm hồn vốn nhân hậu đã rơi vào vô cảm . Mị chỉ biết ở với ngọn lửa, ngọn lửa cháy sáng nhưng lòng Mị ngụp đầy bóng tối. Luận điểm 2 Tác nhân đánh thức Mị, thôi thúc Mị cứu A Phủ Miêu tả cái chết tinh thần ấy, Tô Hoài đã tự đặt mình vào một thử thách lớn . Làm sao nhà văn lại khiến người đọc tin rằng , từ trạng thái vô cảm kia , Mị có thể thức tỉnh, cắt dây trói của A Phủ , cứu A Phủ và tự cứu chính mình? Làm sao nhà văn có thể tìm được chìa khóa để mở cánh cửa của một cõi lòng cơ hồ đã chết? Và có lẽ, truyện ngắn VCAP đã chết nếu như nó “miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả , nếu như nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi và trả lời những câu hỏi đó” Bêlinxki . Thế nhưng, Tô Hoài đã chính mình tháo gỡ nút thắt cho câu chuyện bằng chi tiết giọt nước mắt của A Phủ “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại ” của A Phủ. Giọt nước mắt ấy đã cứu rỗi tâm hồn Mị. Dòng nước mắt ấy không phải của kẻ hèn nhát hay yếu đuối , đó không phải là giọt nước mắt van xin hay cầu khẩn lòng thương hại của Mị. Mà nó chất chứa nỗi đau đớn, sự uất hận thầm lặng mà dữ dội của một con người tràn đầy sức mạnh , có thừa lòng can đảm mà đành bất lực trước cái chết oan ức, phi lí của A Phủ. Chính dòng nước mắt ấy đã đánh thức khát vọng sống tưởng chừng như đã chết trong lòng Mị. Luận điểm 3 Diễn biến tâm lí của Mị khi cắt dây trói cứu A Phủ. Chi tiết tưởng như không có gì đáng kể này lại là chi tiết quyết định, xoay chuyển số phận của nhân vật Mị. Nó đập mạnh vào trái tim băng giá của Mị – một trái tim dường như chỉ còn chi chít những vết thương tâm hồn để lại, chai sạn và vô cảm. Nó làm cho Mị nhớ ra, xót thương cho chính Mị những đêm ngày trước , “Nhìn thấy tình cảnh như thế , Mị chợt nhớ lại đêm năm trước, A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được” . Tâm hồn Mị hồi sinh trước hết trong sự tự ý thức, tự thương chính bản thân mình. Đấy cũng là quy luật tâm lí vốn có của con người. Giọt nước mắt của A Phủ đã đưa Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ, làm tan đi cái giá băng trong trái tim cơ hồ đã chết của Mị. Từ chỗ thương mình, trong lòng Mị dâng lên nỗi xót xa , thương cảm cho bao kiếp người bị đày đọa “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thế thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này ”. Từ nhận thức về thân phận mình, thân phận của người chị dâu bị trói đứng đến chết, Mị nguyền rủa cha con nhà thống lí và nhận ra “Chúng nó thật ác”. Khi một kẻ đang trong tình trạng mất hết ý thức, lại nhận ra nguyên nhân của cái khổ mà mình gánh chịu thì đúng là một cuộc hội ngộ ngược dòng của ý thức, là nhận thức mang tính lí trí chứ không phải cảm tính nữa. Mị độc thoại với chính mình “Chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Nhận thức về cái chết cứ trở đi trở lại trong đầu làm Mị sợ . Nhưng ý nghĩ “ta đã là thân đàn bà, nó bắt ta về trình ma nhà nó thì chỉ còn rũ xương ở đây mà thôi” đã làm cho Mị nhận ra sự phi lí trong số phận của A Phủ. Trong khoảnh khắc trỗi dậy của tình người , người con gái có tâm hồn trong sáng, nhân hậu của ngày xưa đã trở về. Nó thôi thúc Mị đứng lên. Tuy nhiên, những suy nghĩ ấy mới chỉ là dấu hiệu của lòng thương cảm mà chưa hất được bóng ma của nhà thống lí “ Ta đã là thân đàn bà, nó bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ đợi đến ngày rũ xương ở đây”. Tư tưởng thần quyền như một thứ gông xiềng trói buộc con người đến chết. Mị nhớ lại đời mình, lo sợ “một lúc nào đó biết đâu A PhỦ trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo Mị cởi trói cho nó , Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy ” . Tự đặt mình trong tình thế xấu nhất là cái chết , lòng Mị không còn sợ nữa. Trái tim nhân ái của Mị đã thôi thúc Mị hành động. Có thể Mị cứu được A Phủ nhưng chính Mị sẽ chết trên cái cọc ấy, Mị đâu có sợ . Lòng thương người đã lớn hơn tất thảy mọi nỗi sợ hãi. Mị đã cởi trói cho A Phủ. Hành động đó là kết quả tất yếu của tình thương, lòng vị tha , của sự bừng sáng về nhận thức, của lòng ham sống mãnh liệt trong Mị. Vẫn là cái quy luật bất diệt của tình người muôn thuở “Thương người như thể thương thân” nhưng qua ngòi bút tài hoa của Tô Hoài , nó đã mang đậm màu sắc riêng của tính cách – tâm hồn con người Tây Bắc chân chất, mộc mạc mà nồng nàn, sâu sắc. Tô Hoài hiểu rằng “ Nhà văn tồn tại trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường tuyệt lộ, bị cái các hoặc số phận dồn đến chân tường , những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đày đọa đến ê chề…” . Tô Hoài đã nâng Mị lên trên hoàn cảnh éo le để trao cho Mị khát khao tự do, khát khao hạnh phúc mãnh liệt. Đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm mùa đông cắt dây trói cứu A Phủ đã giúp ta phần nào hình dung kiếp sống nô lệ tủi nhục của Mị, không chỉ bị đày đọa về thể xác mà còn bị giam hãm cả về tinh thần bởi những hủ tục lạc hậu. Mị chính là nạn nhân của chế độ cũ bất công với cường quyền, thần quyền và cả tiền quyền. Khắc họa số phận nhân vật Mị, nhà văn vừa lên án, tố cáo thế lực phong kiến vừa bênh vực cho con người. Qua đó, nhà văn bày tỏ lòng thương cảm sâu sắc đối với cuộc đời người phụ nữ, trân trọng những vẻ đẹp, khát khao tâm hồn của họ. Đó chính là tấm lòng nhân đạo cao cả của tác giả đối với nhân vật của mình. Đánh giá về nghệ thuật “Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Tô Hoài đã thành công khi xây dựng nhân vật Mị qua việc miêu tả diễn biến tâm lí đầy phức tạp trong đoạn trích đêm mùa đông cắt dây trói cứu A Phủ. Ngòi bút Tô Hoài như mổ xẻ, luồn lách tinh vi vào các ngõ ngách để tìm “vẻ đẹp kín đáo ở chỗ không ai ngờ tới” , đem đến cho người bài học trông nhìn và thưởng thức Thạch Lam. Nghệ thuật trần thuật uyển chuyển, linh hoạt , cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, miêu tả diễn biến nội tâm biến hóa đa dạng nhưng vẫn nằm trong vòng tình lí của sự sống. Ông đã tuân theo nguyên tắc của phép biện chứng tâm hồn để tái hiện chặng tâm lí đầy phức tạp nhưng vẫn hợp lí, mạch lạc. Văn phong của Tô Hoài trong sáng, biểu cảm, đậm đà màu sắc văn hóa Tây Bắc. Lời văn bay bổng, giàu chất thơ đã mở ra cả một không gian văn hóa Tây Bắc vời vợi, xa xôi mà đầy cuốn hút. 2/ Thực hiện yêu cầu phụ Nhận xét về niềm tin vào con người của nhà văn Tô Hoài. Ở nhân vật Mị, Tô Hoài đã cho bạn đọc thấy niềm tin của ông về bản chất của con người. Vẻ đẹp tiềm tàng ẩn sâu trong tâm hồn tưởng chừng chỉ còn là lớp tro tàn nguội lạnh của Mị lại là khát khao được sống, được yêu, sức phản kháng mãnh liệt. Từ chấp nhận cam chịu đến phản kháng, từ việc quên đi nỗi đau, không còn ước mơ đến khát khao sống, từ cuộc nổi loạn của Mị, Tô Hoài khẳng định được chân lí muôn đời Ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh chống lại nó dù đó là sự bùng lên một cách tự phát như Mị. Sự đấu tranh ấy của Mị là nét độc đáo mà nhà văn Tô Hoài sáng tạo trên nhân vật của mình. Trước năm 1945, các nhà văn hiện thực như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao chỉ coi con người là nạn nhân của hoàn cảnh . Các nhân vật của họ dù trong hoàn cảnh nào cũng có kết cục bi thảm Chị Dậu bị sưu thuế dồn đến đường cùng, anh Pha bị lừa gạt, ức hiếp đến mất cả vợ con còn bản thân thì bị tù tội, Chí Phèo bị xã hội cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, phải kết liễu đời mình trước cánh cửa trở về cuộc đời lương thiện. Nhưng Tô Hoài, với cái nhìn của một nhà văn cách mạng đã đem ánh sáng của cuộc đời mới chiếu rọi vào các thân phận nô lệ và tìm hướng giải thoát cho cuộc đời của Mị . Đây chính là nét mới mẻ trong tình cảm nhân đạo của Tô Hoài so với các nhà văn hiện thực trước đó. Con đường đến với ánh sáng của tự do xuất phát từ nhu cầu tự giải phóng mình và đó chính là con đường đấu tranh tự phát đến tự giác dưới sự soi đường, dẫn lối của Đảng. 3/ Đánh giá chung Banzac đã từng khẳng định “Nhà văn phải là người thư kí trung thành của thời đại.” Sau năm 1945, đặc biệt là giai đoạn 1945 – 1975, các nhà văn đi sâu khai thác hiện thực cuộc sống , hướng ngòi bút về những con người khổ cực , cam chịu, nhẫn nhục như bao nạn nhân của chế độ cũ vùng lên phản kháng đấu tranh. Mị nói riêng và số phận từ các nhân vật đau khổ, tủi hờn , họ biết hướng về tương lai để thắp lên hi vọng, hướng về ánh sáng tự do. Nguyên nhân của sự chuyển biến này là nhờ ánh sáng soi đường của cách mạng , văn học thời kì này phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng lái con thuyền từ “Thung lũng đau thương ra cánh đồng vui” . Qua đó, thể hiện cái nhìn lạc quan , niềm tin và cảm hứng nhân đạo của nhà văn được khơi gợi. Đồng thời nó hướng nhà văn theo hướng giải phóng là một quy luật tất yếu. Các nhân vật như anh hùng Núp trong “Đất nước đứng lên” của Nguyên Ngọc, Chị Sứ trong “Hòn Đất” của Anh Đức, chị Út Tịch trong “Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi” là sự tiếp nối tự nhiên của Mị trở thành những anh hùng cách mạng. III/ Kết bài Có nhà phê bình cho rằng “ Văn học nằm ngoài quy luật của sự băng hoại, chỉ mình nó không chấp nhận quy luật của cái chết”. Những tác phẩm văn học chân chính bao giờ cũng có sức sống lâu bền “vượt lên những bờ cõi và giới hạn” . Ta tin rằng “Vợ chồng A Phủ” sẽ mãi là một tác phẩm làm say lòng người đọc bao thế hệ với Núi xòe dáng núi, sông lượn nhánh Mây mỏng cánh ban, gió dẫn đường
Phân tích nhân vật Mị trong đêm đông cởi trói cứu A PhủPhân tích nhân vật Mị trong đêm đông cởi trói cứu A PhủMảnh đất Tây Bắc với thiên nhiên núi rừng hùng vĩ và con người nồng hậu chất phác luôn để lại trong mỗi người ấn tượng sâu sắc. Tuy không sinh ra ở Tây Bắc, nhưng những năm tháng sống và trải nghiệm cùng người dân nơi đây đã để lại cho nhà văn Tô Hoài nhiều tình cảm sâu sắc, từ đó ông viết thành truyện ngắn vợ chồng A Phủ, kể về cuộc đời Mị-cô gái Mèo xinh đẹp, tài năng nhưng phải chịu nhiều đắng cay, khổ cực. Và bước ngoặt lớn nhất của cuộc đời Mị, cũng là của tác phẩm chính là đêm đông chị cởi trói cho A quan Phân tích nhân vật mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng NgàiMị là cô gái vùng cao xinh đẹp, có tài thổi sáo,nhiều chàng trai theo đuổi. Nhưng lẽ đời vốn thế, hồng nhan thì bạc phận,vì món nợ gia đình khi bố mẹ lấy nhau mà Mị bị A Sử-con thống lí Pá Tra lợi dụng tập tục cổ hủ bắt về làm con dâu gạt nợ. Từ đó, cuộc đời cô bước sang những tháng ngày tăm tối thấm đẫm nước mắt. Cuộc sống cơ cực, tủi nhục ở nhà thống lí Pá Tra đã vùi dập hết sức sống, nhận thức của đầu cô còn phản kháng, khóc lóc, toan ăn lá ngón tự tử nhưng rồi thương cha nên Mị tiếp tục sống, lâu dần, Mị mất hẳn ý thức về cuộc đời, về thời gian, không gian, “ở lâu trong cái khổ, Mị khổ quen rồi”, Mị sống mà như đã chết, không còn cả chút ý niệm nào về cuộc sống diễn ra xung nhiên, với sự tinh tế và nhạy cảm, Tô Hoài đã làm sống dậy nhân vật của mình trong đêm tình mùa xuân với tiếng sáo gọi bạn tình ngân vang, tiếng sáo như một hiện hữu trong tâm hồn Mị, thổi bùng lên đốm lửa khao khát tự do, khao khát thanh xuân bấy lâu nay âm ỉ cháy trong sâu thẳm. Nhưng rồi A Sử đã nhẫn tâm dập tắt đốm lửa ấy, hắn trói cô vào cột, tàn nhẫn không để chút niềm tin sống nào len lỏi lên trong người con gái khốn A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh, vì tội đánh con quan mà phải sống kiếp nô lệ trả nợ, trong một lần mải mê bẫy nhím để hổ bắt mất con bò, A Phủ bị trói đứng vào cột cho đến khi A Sử săn được hổ. Suốt mấy ngày liền gió rét dữ dội, hàng đêm Mị lại trở dậy hơ tay,thản nhiên không quan tâm đến A Phủ bị trói ngay đấy, “dù cho A Phủ có là cái xác đứng đấy cũng vậy thôi”.Đọc thêm Sơ đồ tư duy Vợ chồng a phủ đúng chuẩnKhông phải vì cô quá vô tâm độc ác mà vì những chuyện như thế vẫn thường xuyên, thường ngày diễn ra trong nhà này, Mị đã quá quen với những bất công vô lí mà chính cô cũng từng là nạn nhân của chúng. Bỗng một đêm, Mị lén nhìn sang,chợt thấy dòng nước mắt của A Phủ lăn xuống gò má xám xịt tím ngắt vì rét và đói, giọt nước mắt ấy đã làm nhói lên lòng yêu thương trong Mị. Mị nhớ lại đêm xuân ấy, mị cũng bị trói đứng như thế, nước mắt chảy xuống vô kể mà không làm sao lau hết được, Mị nhớ lại câu chuyện người đàn bà từng bị trói đến chết cũng ngay ở chỗ đó,cô căm thù tội ác của bọn giặc thống xót thương cho số phận của mình rồi xót thương cho A Phủ “cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết” Mị căm ghét những tập tục cổ hủ đã ép buộc cô phải sống đến chết cũng phải rũ xương ở nơi này, nhưng A Phủ không bị trình ma thì việc gì anh ta phải chết thế. Diễn biến tâm lí của Mị phức tạp nhưng cũng rất tự nhiên, hợp lí, từ vô cảm đến xót thương, thương cho mình, thương cho người rồi căm hận sâu sắc bọn chúa đất cường hào “chúng nó thật độc ác”.Mị muốn cởi trói giải cứu A Phủ, Mị thoáng nghĩ về hậu quả sẽ bị trói thay vào đấy đến chết nếu bị phát hiện, nhưng lúc này “dù có làm sao Mị cũng không thấy sợ” rồi không dừng lại ở suy nghĩ, Mị hành động, cô cầm con dao mây cắt dây cởi trói cho A Phủ. Hành động liều lĩnh này xuất phát từ lòng yêu thương, nỗi xót xa cho thân phận mình và cho những kẻ đồng cảnh thêm Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ NhặtSau một hồi đứng lặng trong bóng tối nhìn theo A Phủ, Mị chạy với theo, rồi hai người trốn sang Phiềng Sa nên vợ nên chồng. Hành động này là hệ quả tất yếu của quá trình bị áp bức, đè nén, cần được giải tỏa của con người, đồng thời nó cũng khẳng định ý nghĩa cuộc sống và khát vọng tự do đến cháy bỏng của nhân dân lao động miền hình tượng nhân vật Mị, Tô Hoài đã chứng tỏ khả năng phân tích diễn biến tâm lí nhân vật sắc sảo, thể hiện nỗi đau xót đến tận cùng của một số phận đắng cay,đồng thời là sức sống tiềm tàng và tinh thần phản kháng mãnh liệt của Mị thể hiện qua đêm tình mùa xuân và đặc biệt là đêm đông cứu A Phủ. Qua hành động đó, tác giả đã chứng minh một chân lí Chỉ cần tình yêu thương và lòng dũng cảm, con người có thể cùng lúc thoát ra khỏi hai nhà tù ớn lạnh cường quyền và thần posted 2019-02-22 224620.
phân tích đêm đông cứu a phủ